Một buổi sinh hoạt của Chi bộ Nhà xuất bản và Tạp chí Khoa học xã hội
1. Đặt vấn đề
“Tự phê bình và phê bình” là một trong những nguyên tắc hoạt động quan trọng của Đảng ta. Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc tự phê bình và phê bình. Người khẳng định trong Di chúc của mình: “Trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Trước đó, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10/1947), Hồ Chí Minh đã bàn đến việc tự phê bình và phê bình. Người nhấn mạnh: “ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công".
Để tự phê bình và phê bình đem lại kết quả thật sự, Hồ Chí Minh đã chỉ ra vai trò của phê bình và tự phê bình, và coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng. Người viết: “Chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình để giúp nhau chữa hết những bệnh ấy. Có như thế Đảng mới chóng phát triển”. Đồng thời, Người đã chỉ rõ nội dung và mối quan hệ biện chứng giữa tự phê bình và phê bình: “Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình”; “Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình”; “Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích là cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm”.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn chú trọng đến việc thực hành nguyên tắc tự phê bình và phê bình, xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, xứng đáng là Đảng cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Các cấp ủy, tổ chức đảng đã nghiêm túc chỉ đạo, tổ chức thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII; Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã gương mẫu, nghiêm túc thực hiện kiểm điểm tự phê bình và phê bình; đồng thời, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tăng cường kiểm tra, chú trọng gợi ý kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân có biểu hiện vi phạm. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã dành thời gian thỏa đáng để kiểm điểm cấp mình, trực tiếp dự chỉ đạo, gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý; coi trọng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình”. Nhờ đó, đã góp phần xây dựng đạo đức cách mạng của Đảng và đảng viên có nhiều chuyển biến tích cực.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII và XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị trở thành công việc thường xuyên của Chi bộ với những nội dung thiết thực, gắn với chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm túc Quy định 37-QÐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về “Những điều đảng viên không được làm”; trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, Chi bộ Nhà xuất bản Khoa học xã hội (từ 04/4/2025 đã hợp nhất với Chi bộ Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam thành Chi bộ Nhà xuất bản và Tạp chí Khoa học xã hội” đã phân công đồng chí Bí thư chi bộ trên cơ sở nguồn tài liệu đã công bố trên sách báo, internet chuẩn bị báo cáo và tổ chức một sinh hoạt chuyên đề gắn với chủ đề Học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh về tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng. Bài viết này được rút ra từ buổi sinh hoạt chuyên đề đã thực hiện.
2. Tự phê bình và phê bình theo tư tưởng của Hồ Chí Minh
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết tháng 10/1947, Hồ Chí Minh chỉ rõ, tự phê bình và phê bình là cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ; cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn; cốt để đoàn kết và thống nhất nội bộ. Người viết: “Ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”[1]. Người chỉ rõ những vấn đề có tính nguyên tắc trong thực hiện tự phê bình và phê bình “theo tinh thần nhân ái và lập trường cách mệnh” đồng thời nêu một tấm gương sáng về tự phê bình và phê bình. Tại lễ bế mạc lớp bổ túc trung cấp (tháng 10/1947), Hồ Chí Minh đã nói: “Tôi làm điều xấu, các đồng chí trông thấy, phải phê bình cho tôi sửa chữa ngay. Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ "nể Cụ" không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người”[2]. Tư tưởng đặc sắc, nổi bật của Người về tự phê bình và phê bình là “phê bình cho đúng” để “trị bệnh cứu người”.
Vì sao phải tự phê bình, phê bình?
Hồ Chí Minh lập luận: Làm người khó ai tránh khỏi lỗi lầm, thiếu sót. Đảng ta là một tổ chức chính trị tiên phong của giai cấp công nhân, tập hợp những chiến sĩ trung kiên, thông minh, dũng cảm..., nhưng Đảng cũng từ trong xã hội mà ra, không phải “trên trời rơi xuống” nên không tránh khỏi khuyết điểm, thiếu sót. Người cũng chỉ ra nhiều lý do khách quan, chủ quan dẫn tới nhiều thiếu sót, khuyết điểm, thậm chí sai lầm của cán bộ, đảng viên. Điều đó là lẽ bình thường, quan trọng là thái độ của những người cộng sản ra sao trước những lỗi lầm mắc phải. Nếu “sợ mất uy tín và thể diện”, không quyết tâm sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, đó là điều bất bình thường. Người khẳng định: “Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó; như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[3].
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình thì giống như uống thuốc. Nếu sợ phê bình thì cũng khác nào là có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. Như vậy thì bệnh tình lại càng nặng thêm, không chết “cũng la lết quả dưa”. Do vậy, đối với đảng viên, cán bộ mà “nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại, thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình!”[4]. Do đó, Người chỉ rõ: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng”[5]. Vì vậy, mọi người phải tự phê bình ráo riết, mạnh dạn nêu lên những ưu điểm và vạch ra những khuyết điểm của mình; cố gắng sửa chữa và lấy lòng thân ái, lòng thành thật mà phê bình đồng chí mình.
Mục đích của tự phê bình, phê bình là gì?
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để đoàn kết và đi tới thắng lợi của cách mạng. Phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, để tiến bộ, để đoàn kết và thống nhất nội bộ. Phê bình và tự phê bình là một khâu trong công tác chỉnh đốn Đảng, mà mục đích chỉnh đốn Đảng theo Hồ Chí Minh là nhằm: “... làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”[6].
Phê bình sao cho đúng?
Để tự phê bình và phê bình đạt được kết quả mong muốn, điều then chốt là phải “phê bình cho đúng”. Phê bình cho đúng chẳng những không làm giảm thể diện, uy tín của người bị phê bình, trái lại, làm cho sức mạnh, uy tín của Đảng và cán bộ, đảng viên tăng lên. Nhưng, muốn phê bình cho đúng, trước hết phải xác định đúng mục đích và đúng đối tượng phê bình. Phê bình cốt là để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, làm việc cho tốt hơn, tạo ra sự đoàn kết, thống nhất nội bộ. Phê bình mình cũng như phê bình người khác không phải là dịp để công kích lẫn nhau, nói xấu nhau và bôi nhọ danh dự của nhau. Khi phê bình người khác không phải là soi mói, “bới lông tìm vết” của đồng chí mình để tìm cơ hội “hạ bệ” lẫn nhau. Người chỉ rõ, cần phải tránh triệt để hiện tượng: “Khi phê bình ai, không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí”[7]. Người xác định “đối tượng cần phê bình là công việc chứ không phải phê bình người”. Những việc làm sai trái, những suy nghĩ lệch lạc, sai lầm, khuyết điểm dù đó là của cá nhân hay của tổ chức, dù đó là đảng viên bình thường hay là cán bộ cấp cao đều phải được phê bình một cách kiên quyết và “phải lập tức sửa chữa”. Người nhấn mạnh: Đối với cơ quan lãnh đạo cũng như đảng viên giữ cương vị lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể phải gương mẫu trong tự phê bình và phê bình, tuyệt đối không được “phùng mang trợn mắt” làm thui chột tinh thần của đảng viên, quần chúng nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, có thái độ đúng với những khuyết điểm, thiếu sót và tìm ra phương pháp phê bình thích hợp là điểm có ý nghĩa mấu chốt trong nâng cao hiệu quả của tự phê bình và phê bình trong Đảng. Người cũng nghiêm khắc lên án thái độ, cách xử lý không đúng đắn trước những khuyết điểm, thiếu sót của tổ chức đảng hay cán bộ, đảng viên. Khi có người mắc phải sai lầm, khuyết điểm, thái độ đúng của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng là không “đao to búa lớn”, vội vàng chụp mũ cho họ rồi cảnh cáo, khai trừ một cách áp đặt. Muốn cho họ thành tâm sửa chữa, phải tiến hành giải thích rõ ràng, công tâm, làm cho họ tự nhận thấy sai sót của mình để vui lòng sửa chữa. Để làm được điều đó, “phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa”[8]. Phê bình “khôn khéo” theo Hồ Chí Minh là phải đồng thời vạch rõ ưu điểm và khuyết điểm, tránh dùng những lời mỉa mai, chua cay đâm thọc, không được hữu khuynh “a dua”, “tâng bốc” mà phải phê, tự phê một cách “ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang thêm bớt”. Sự “khôn khéo” còn thể hiện ở chỗ tiến trình tự phê bình và phê bình phải được đặt trong khuôn khổ của tổ chức, có sự lãnh đạo chặt chẽ. Lãnh đạo khơi dậy được tinh thần dân chủ không chỉ trong Đảng mà cả trong quần chúng nhân dân. Làm như thế mới tránh được hiện tượng đảng viên, cán bộ và quần chúng nhân dân dù có ý kiến cũng không dám nói, không dám đấu tranh phê bình.
Hồ Chí Minh yêu cầu phê bình phải được tiến hành một cách thường xuyên liên tục. Làm được như vậy, theo Người: Các sai lầm khuyết điểm sẽ được rửa sạch ngay khi nó mới phôi thai. Còn “Nếu để sai lầm, khuyết điểm trở nên to tát rồi mới đem ra “chỉnh” một lần, thế là “đập” cán bộ. Cán bộ bị “đập”, mất cả lòng tự tin, người hăng hái cũng hoá thành nản chí, từ nản chí đi đến vô dụng”[9], như thế là không thực hiện đúng mục đích của tự phê bình, phê bình, không vì sự tiến bộ mà còn mất dần cán bộ, đảng viên. Người cho rằng, lỗi lầm cũng có “việc nhỏ, việc to”, nếu không dùng biện pháp xử phạt thì kỷ luật của Đảng cũng trở nên lỏng lẻo, và điều đó cũng là sự mở đường cho bọn cố ý dễ dàng phá hoại Đảng ta. Do vậy, để tự phê bình và phê bình được tăng thêm hiệu quả thì phải kết hợp chặt chẽ với biện pháp tổ chức, soi xét kỹ lưỡng từng trường hợp để có hình thức xử lý thích hợp.
3. Liên hệ tình hình thực tiễn thực hiện nguyên tắc tự phê bình, phê bình hiện nay
Nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta phải thừa nhận việc thực hiện tự phê bình và phê bình ở một số tổ chức đảng, đoàn thể và một bộ phận cán bộ, đảng viên còn hình thức và hạn chế. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Đảng ta chỉ rõ: Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng. Một số cán bộ, đảng viên tính chiến đấu yếu, còn tư tưởng “dĩ hòa vi quý”. Chưa nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước những hạn chế, khuyết điểm của tập thể. Do vậy, trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh, theo chúng tôi, các tổ chức cơ sở đảng cần phải:
- Đẩy mạnh giáo dục nhằm làm cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình. Khắc phục những biểu hiện sai trái trong phê bình và tự phê bình, nhất là tình trạng thiếu thông tin, thông tin không chính xác, kịp thời và thái độ độc đoán, gia trưởng, áp đặt ý kiến cá nhân trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình.
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức sinh hoạt chi bộ, gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình để chỉ rõ và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- Đẩy mạnh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bè phái. Đây là kẻ thù bên trong, là nguyên nhân sâu xa làm suy yếu tinh thần, thái độ, trách nhiệm trong đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng và xã hội.
- Củng cố, xây dựng môi trường làm việc thật sự dân chủ, có kỷ cương để phát huy tác dụng và thực hiện có nền nếp tự phê bình và phê bình trong cơ quan, đơn vị.
- Đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là người lãnh đạo các cấp trong cơ quan, đơn vị phải lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình để đề cao trách nhiệm, tự rèn luyện, hoàn thiện bản thân, trong đó lấy tự phê bình, phê bình cho đúng làm phương thức cơ bản giải phóng mọi tiềm năng của con người.
Đại hội chi bộ nhiệm kỳ 2025-2030 tới đây sẽ là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, cũng là dịp để cán bộ, đảng viên Chi bộ Nhà xuất bản và Tạp chí Khoa học xã hội thể hiện trách nhiệm của mình trong thực hành tự phê bình và phê bình, góp phần củng cố và xây dựng chi bộ đoàn kết, thống nhất, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Theo đó, cần chú ý làm tốt các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, đối với chi bộ, thực hiện tự kiểm điểm quá trình lãnh đạo thực hiện Nghị quyết đại hội của chi bộ mình, đánh giá những thành tựu, kết quả đạt được cũng như chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế, giúp cho Đại hội xây dựng được các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp khách quan, phù hợp với thực tiễn, bảo đảm để chi bộ lãnh đạo và hoàn thành thắng lợi Nghị quyết đề ra.
Thứ hai, đối với cấp ủy, tự kiểm điểm quá trình lãnh đạo thực hiện Nghị quyết và hoạt động của chi bộ trong nhiệm kỳ qua, rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, xây dựng chi ủy vững mạnh.
Thứ ba, đối với mỗi đảng viên, đây là dịp để tham gia, đóng góp những ý kiến, giải pháp đối với công tác lãnh đạo của chi bộ. Đó là trách nhiệm, quyền của mỗi đảng viên, giúp cho chi bộ “tự soi”, “tự sửa”, tiếp tục lãnh đạo, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất. Đồng thời, đây cũng là dịp để mỗi đảng viên tự phê bình, kiểm điểm trách nhiệm của bản thân đối với kết quả cũng như những hạn chế, khuyết điểm của chi bộ mình, từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm trong tham gia xây dựng đảng, xây dựng chi bộ đoàn kết, thống nhất, bảo đảm lãnh đạo Nhà xuất bản và Tạp chí Khoa học xã hội thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị được giao trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
3. Tài liệu tổng hợp từ internet, truy cập năm 2024.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 272-273.
[2] Sách đã dẫn, tr.260.
[3] Sách đã dẫn, tr.301.
[4] Sách đã dẫn, tr.301.
[5] Sách đã dẫn, tr.279.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 616
[7] Sách đã dẫn, tr.298.
[8] Sách đã dẫn, tr.284.
[9] Sách đã dẫn, tr.322.