Dẫn nhập
Toàn cầu hóa sâu rộng và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra trên thế giới với đặc trưng “xóa nhòa ranh giới giữa ba ngành khoa học thực nghiệm hiện đại gồm vật lý, công nghệ sinh học và kỹ thuật số” đem lại tính ứng dụng ưu việt cho cơ sở hạ tầng của xã hội như robot, trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI), dữ liệu lớn (Big Data) hay vạn vật kết nối (Internet of Things - IoT) (Phạm Hồng Tuấn, 2019). Điều này cho thấy các quốc gia không chỉ cạnh tranh bằng tài nguyên thiên nhiên hay công nghệ kỹ thuật, mà còn cạnh tranh cả tri thức xã hội - sự hiểu biết về con người, xã hội và cách vận hành của hệ thống xã hội. Robot và trí tuệ nhân tạo chỉ có thể thay thế được vai trò của con người trong công cụ về chân tay và trí óc, có thể cạnh tranh với con người một số lĩnh vực việc làm, gây nên sự xáo trộn xã hội, nhưng chúng không thể thay thế hệ giá trị tinh thần của xã hội, thay thế nhân cách của con người... KHXH và nhân văn được coi là “trái tim của nhân loại”, do vậy, các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam cần có đủ nguồn nhân lực trong khối ngành KHXH để nhận thức và cảnh báo, cũng như hoạch định chính sách cho quốc gia dân tộc mình, bởi trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0 vẫn còn nhiều khoảng trống cần được các nhà nghiên cứu quan tâm và khảo cứu thỏa đáng.
Ngày nay, thông tin được coi là tri thức, là phương tiện trong hoạch định chính sách; sau khi ban hành, thông tin lại trở thành công cụ đánh giá chính sách, thu thập phản biện xã hội để điều chỉnh chính sách, giúp nhà quản lý thực hiện công việc của mình hiệu quả hơn. Thông tin KHXH được liên tục cập nhật, phát triển và phổ biến mạnh mẽ qua hệ thống hạ tầng công nghệ, chuyển đổi số hiện nay. Thông tin KHXH không thay đổi về vai trò nhưng thay đổi về số lượng, dung lượng và cách thức phổ biến thông tin. Nhà quản lý thông tin ngày nay có thể có được lượng thông tin lớn, nhanh chóng hơn nhưng cũng phải đứng trước nhiều luồng thông tin bị nhiễu, bị thiếu chính xác, nên cần có những kỹ năng, trình độ nhất định để lựa chọn, khai thác và sử dụng thông tin. Thông tin KHXH được xem xét như một dạng quyền lực trí tuệ mềm, đóng vai trò trung tâm trong việc kiến tạo năng lực phát triển và định hình bản sắc văn hóa dân tộc trong kỷ nguyên mới.
Việt Nam đang trong quá trình vươn lên mạnh mẽ nhờ chính nội lực được tích lũy qua 40 năm đổi mới đất nước cùng với quyết tâm của toàn dân tộc. Bối cảnh quốc tế nhiều biến động về chính trị, kinh tế và những vấn đề toàn cầu đã tác động rất lớn đến quá trình phát triển của đất nước giai đoạn hiện nay. Để hiểu được bên trong cũng như nắm bắt được thông tin bên ngoài, thông tin KHXH có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển đất nước.
1. Một số khái niệm
Thông tin khoa học là những tin tức, thông báo hay những tri thức có tính khoa học (hợp với chân lý khách quan và thực tiễn cuộc sống) được con người tiếp nhận, lựa chọn và sử dụng qua các phương thức thích hợp trong hoạt động có định hướng và có mục đích của mình. Hay nói cách khác, thông tin khoa học là một lĩnh vực liên ngành liên quan đến việc phân tích, thu thập, phân loại, xử lý, lưu trữ, phổ biến, bảo vệ thông tin và phổ biến tin tức với mục đích tạo ra, thay thế, cải thiện sự hiểu biết hệ thống thông tin, nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của con người (Phùng Thị Việt Hà, 2019).
Thông tin KHXH là những tri thức, dữ liệu, phân tích về con người, xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị… được nghiên cứu một cách khoa học.
Thông tin KHXH mang tính diễn giải và phản tư, không chỉ mô tả thực tại mà còn giúp xã hội hiểu và điều chỉnh hành động của mình.
Theo Karl Marx (1867), trong thời đại công nghiệp hóa, tri thức - bao gồm cả tri thức xã hội - đã trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó, đầu tư vào thông tin KHXH chính là đầu tư vào nguồn lực sản xuất bậc cao của quốc gia. Hay như V. I. Lenin (1913) đã từng nhấn mạnh rằng, không thể có sự vận động cách mạng nếu thiếu nền tảng lý luận khoa học. Trong kỷ nguyên phát triển hiện nay, vai trò của thông tin KHXH vẫn giữ nguyên như một “kim chỉ nam” cho hành động xã hội.
Trong “The Rise of the Network Society”, Manuel Castells (1996) khẳng định: “Tri thức xã hội và khả năng xử lý thông tin trở thành những yếu tố sản xuất chính yếu trong xã hội hậu công nghiệp”. Không chỉ công nghệ, tri thức xã hội học cũng là nền tảng sức mạnh của các quốc gia hiện đại.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc có thể hiểu là thời kỳ một đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ để hội nhập, phát triển vượt bậc về mọi mặt. “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là một khái niệm mang tính chính trị - lịch sử - phát triển, được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định như một giai đoạn chuyển tiếp chiến lược, mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước. Khái niệm này được Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh trong nhiều bài phát biểu gần đây, đặc biệt là tại các hội nghị Trung ương và các sự kiện kỷ niệm lớn của đất nước. Đảng xác định, từ Đại hội XIV trở đi, đất nước sẽ chính thức bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Theo đó, kỷ nguyên mới đòi hỏi phải tạo chuyển biến căn bản về nhận thức, hành động của toàn Đảng, toàn xã hội trong việc giữ gìn, nuôi dưỡng, sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. Đặc biệt, kỷ nguyên mới đòi hỏi phải phát huy cao nhất tinh thần, ý chí, sức mạnh của nhân dân - chủ thể đóng vai trò trung tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới (Phùng Hữu Phú, 2025).
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là giai đoạn phát triển giàu mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Về cơ sở hình thành: Thứ nhất, thành tựu sau 40 năm đổi mới: Việt Nam đã chuyển mình từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Thứ hai, thế và lực mới: Việt Nam tích lũy được vị thế quốc tế, vai trò trong các tổ chức đa phương, cùng khát vọng dân tộc mạnh mẽ. Thứ ba, thời cơ chiến lược: Sự chuyển dịch địa chính trị, chuyển đổi số, và xu hướng phát triển bền vững toàn cầu mở ra cơ hội cho Việt Nam bứt phá.
Về muc tiêu chiến lược: Đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập bình quân cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, hoàn thiện mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Về trụ cột phát triển: Thứ nhất, Việt Nam đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển từ tăng trưởng dựa vào tài nguyên, lao động giá rẻ sang dựa vào đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ. Thứ hai, chuyển đối số toàn diện theo hướng xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Thứ ba, phát triển con người, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Thứ tư, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế, cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Thứ năm, hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia tích cực vào các chuỗi giá trị toàn cầu, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Về cơ hội và thách thức: Cơ hội gồm làn sóng chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu; tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số; nhu cầu hợp tác quốc tế trong các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh lương thực. Thách thức gồm nguy cơ tụt hậu về công nghệ, năng suất lao động; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh; diễn biễn phức tạp của tình hình thế giới, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn.
2. Vai trò của thông tin khoa học xã hội đối với sự phát triển quốc gia
Đánh giá về vai trò đặc biệt của khoa học và công nghệ đối với tiềm năng phát triển vươn mình của đất nước, Đảng và Nhà nước nhận định: Việt Nam bắt buộc phải tiến hành cuộc cách mạng đổi mới tư duy, tháo gỡ điểm nghẽn, kiến tạo để thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trong đó có lĩnh vực thông tin KHXH và nhân văn. Trên tinh thần đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học và công nghệ. Theo đó, lĩnh vực thông tin khoa học nhân văn cùng với các ngành khoa học khác sẽ góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người Việt Nam và bảo vệ Tổ quốc, sánh ngang với các nước trong khu vực và thế giới.
2.1. Định hướng tư duy và hành động
Thông tin KHXH là lĩnh vực khoa học đặc thù có tính chất liên ngành, nghiên cứu thông tin về những thay đổi và phát triển của các nền văn hóa, tư tưởng, xã hội, những triết lý, nguyên lý, những khía cạnh có giá trị liên quan đến con người và những quy luật tạo ra bởi các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội.
Thông tin KHXH giúp xã hội hiểu rõ mình đang ở đâu, cần đi đâu, và phải làm gì. Thông tin KHXH cung cấp nền tảng lý luận để hoạch định chính sách giáo dục, văn hóa - xã hội, xây dựng chiến lược phát triển phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế. Trong “Beyond Left and Right: The Future of Radical Politics”, Anthony Giddens (1994) nhấn mạnh: “Chính sách hiệu quả phải dựa trên hiểu biết sâu sắc về động lực xã hội thay vì chỉ thuần túy dựa vào kinh nghiệm quản lý”. Các chính sách phát triển quốc gia trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc cần bám rễ vào nghiên cứu xã hội học thay vì áp dụng mô hình cứng nhắc.
2.2. Thúc đẩy cải cách thể chế và đổi mới quản trị
Các nghiên cứu xã hội học, kinh tế học, chính trị học đã chỉ ra những điểm yếu trong bộ máy nhà nước và các mô hình phát triển. Trong “Institutional Change and Economic Performance”, Douglass North (1990) chỉ ra rằng, “Thể chế hiệu quả không thể xây dựng nếu thiếu thông tin chính xác về hành vi xã hội và cơ cấu quyền lực”. Muốn cải cách thể chế thành công cần dựa vào phân tích xã hội học sâu sắc, phản ánh thực tiễn một cách sâu sắc. Việt Nam đang ở trong giai đoạn tinh gọn bộ máy hành chính nhà nước theo hướng hiệu quả; thông tin KHXH giúp phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp. Thực tế cho thấy, trong quá trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ, việc hợp nhất các bộ ngành có chức năng, nhiệm vụ tương đồng trên cơ sở nghiên cứu khoa học về hiệu quả hoạt động và tránh chồng chéo chức năng giữa các cơ quan đang được thực hiện khẩn trương, đúng tinh thần của Nghị quyết do Đảng ban hành.
Thông tin KHXH giúp điều chỉnh thể chế, cải thiện quản trị nhà nước, đảm bảo phát triển bền vững và hiệu quả hơn.
Thông tin KHXH cung cấp dữ liệu và phân tích về hiệu quả hoạt động của các mô hình tổ chức hành chính, giúp xác định những điểm mạnh, điểm yếu và đề xuất cải tiến cho phù hợp. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang triển khai chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2021-2030, tập trung vào cải cách thể chế, tổ chức bộ máy, chế độ công vụ và tài chính công.
Thông tin KHXH đóng vai trò chính yếu trong việc truyền thông, tuyên truyền về mục tiêu, nội dung và lợi ích của cải cách hành chính, từ đó tạo sự đồng thuận và ủng hộ từ phía người dân và các tổ chức xã hội. Việc khai thác và ứng dụng hiệu quả thông tin KHXH sẽ góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới.
2.3. Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc
Khi thế giới toàn cầu hóa nhanh và đặc biệt trong quá trình chuyển mình mạnh mẽ thì nguy cơ đánh mất chính mình trở nên hiện hữu. Thông tin KHXH giúp nhận diện, bảo vệ bản sắc dân tộc, góp phần duy trì tính liên tục của truyền thống văn hóa dân tộc, đồng thời tìm cách đưa văn hóa Việt Nam hòa nhập mà không hòa tan. Edward Said (1978) trong “Orientalism” đã cảnh báo: “Không có nhận thức phê phán về bản thân, xã hội dễ dàng bị cuốn vào cái nhìn và quyền lực của người khác”. Thông tin KHXH giúp quốc gia bảo vệ bản sắc, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị con người Việt Nam, tránh bị nguy cơ đồng hóa trong toàn cầu hóa.
Việc phát triển ngành công nghiệp văn hóa, du lịch, sáng tạo cũng cần căn cứ vào nghiên cứu kinh tế - xã hội của quốc gia; có thông tin đa chiều sẽ có những chính sách phát triển và thúc đẩy ngành phù hợp.
2.4. Dự báo, nhận diện các xu thế mới
Thông tin KHXH là hệ thống cảnh báo sớm giúp đất nước ứng phó với những thách thức tiềm ẩn của phát triển. Các nhà nghiên cứu KHXH phân tích biến động kinh tế, di cư lao động, thay đổi giá trị xã hội, từ đó giúp nhà nước, doanh nghiệp, người dân chuẩn bị tốt hơn cho tương lai, tránh được rủi ro. Trong “Risk Society: Towards a New Modernity”, William Leiss và cộng sự (1992) nhận định: “Xã hội hiện đại không chỉ sản sinh ra rủi ro, mà còn cần một tầng lớp tri thức xã hội mới để nhận diện, phân tích và quản lý những rủi ro ấy”.
2.5. Làm nền tảng cho phát triển kinh tế tri thức
Kỷ nguyên mới là kỷ nguyên của kinh tế tri thức, ở đó, không chỉ khoa học kỹ thuật mà cả KHXH (như quản trị, truyền thông, luật pháp, hành vi tiêu dùng…) cũng đóng vai trò then chốt. Thông tin KHXH đóng vai trò nền tảng, kích hoạt phát triển kinh tế tri thức ở những khía cạnh rất quan trọng:
Thứ nhất, kiến tạo môi trường thể chế thuận lợi: Thông tin KHXH phân tích đặc điểm văn hóa, xã hội, hành vi tổ chức, hành vi chính sách, từ đó đề xuất các khung thể chế linh hoạt, sáng tạo phù hợp với kinh tế tri thức. Karl Marx (1867) đã chỉ ra rằng: “Sự phát triển sản xuất phụ thuộc vào sự phát triển các quan hệ xã hội”.
Thứ hai, thúc đẩy sản sinh, truyền bá và ứng dụng tri thức: KHXH nghiên cứu cơ chế vận động của tri thức trong xã hội, gồm cách con người sáng tạo, chia sẻ và sử dụng thông tin. Các mô hình xã hội học về mạng lưới tri thức, xã hội học đổi mới công nghệ chỉ ra cách làm cho tri thức lan tỏa nhanh, giảm chi phí giao dịch trong nền kinh tế.
Thứ ba, thông tin KHXH giúp phân tích nhu cầu kỹ năng của nền kinh tế tri thức: kỹ năng mềm, sáng tạo, hợp tác liên ngành, kỹ năng số… từ đó đề xuất chính sách giáo dục, đào tạo phù hợp.
Thứ tư, định hướng phát triển văn hóa sáng tạo: KHXH nghiên cứu hệ giá trị, chuẩn mực xã hội ảnh hưởng đến sự đổi mới sáng tạo, khả năng chấp nhận rủi ro và tinh thần khởi nghiệp. Để thúc đẩy kinh tế tri thức, cần xây dựng dựng văn hóa tôn trọng tri thức, tôn trọng sáng tạo, chấp nhận thử nghiệm và sai.
Thứ năm, dự báo và quản trị các vấn đề mới của xã hội: Thông tin KHXH giúp nhận diện các thách thức xã hội phát sinh từ kinh tế tri thức như bất bình đẳng kỹ thuật số, thất nghiệp công nghệ, xung đột giá trị mới. Thông tin KHXH đồng thời cung cấp luận cứ khoa học để hoạch định các chính sách xã hội thích ứng, đảm bảo phát triển bền vững.
2.6. Những thách thức của thông tin khoa học xã hội ở Việt Nam
Một là sự thiếu hụt thông tin KHXH chất lượng cao ở nhiều lĩnh vực (xã hội số, trí tuệ nhân tạo và đạo đức, di cư quốc tế…). Nguồn thông tin KHXH cũng thiếu tính hệ thống. Nhiều nghiên cứu không được số hóa, lưu trữ tập trung hoặc chia sẻ rộng rãi, khiến việc tìm kiếm, tiếp cận thông tin bị gián đoạn, cục bộ.
Hai là rủi ro chính trị hóa thông tin KHXH làm méo mó nhận thức thực tại. Không gian tự do học thuật còn hạn chế; một số lĩnh vực “nhạy cảm” (như quyền con người, xã hội dân sự…) khiến nhà nghiên cứu dè dặt trong việc tìm hiểu, khảo sát.
Ba là các vấn đề toàn cầu hiện đại gồm các chủ đề nóng như kinh tế số, di cư xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu, chủ quyền số… còn ít công trình chuyên sâu ở Việt Nam. Nhiều nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc ghi nhận hiện tượng mà chưa đi sâu vào cơ chế vận động hay chỉ ra được nguyên nhân.
Bốn là vấn đề tài chính và đầu tư cho nghiên cứu: kinh phí cho nghiên cứu KHXH còn hạn chế, thấp hơn nhiều so với khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Các vấn đề hiện đại như biến đổi khí hậu, trí tuệ nhân tạo, đô thị hóa… đòi hỏi cách tiếp cận liên ngành xã hội học, công nghệ, kinh tế, luật học, nhưng nghiên cứu ở Việt Nam vẫn triển khai đơn tuyến mà chưa có sự liên kết đồng bộ.
3. Một số giải pháp nâng cao vai trò của thông tin khoa học xã hội trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Hoàn thiện thể chế phát triển thông tin KHXH: ban hành các chính sách quốc gia để phát triển hệ thống dữ liệu thông tin KHXH, tương đương với dữ liệu kinh tế và công nghệ; thể chế hóa vai trò của thông tin KHXH trong quy trình xây dựng chính sách công, chương trình phát triển.
- Phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin KHXH hiện đại: xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về KHXH, tích hợp các viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan nhà nước; ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để cập nhật, xử lý và khai thác dữ liệu KHXH.
- Tăng cường nghiên cứu liên ngành và dự báo xã hội: thúc đẩy nghiên cứu liên ngành giữa KHXH với khoa học tự nhiên, khoa học kinh tế; xây dựng các trung tâm dự báo xã hội học - chính trị học - tâm lý học gắn với các kịch bản phát triển đất nước.
- Nâng cao năng lực nhân lực KHXH: đổi mới đào tạo KHXH theo hướng liên ngành - ứng dụng, gắn với thực tế phát triển, thành thạo công nghệ số trong nghiên cứu KHXH; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, trao đổi học thuật với các trung tâm KHXH tiên tiến trên thế giới (Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…)
- Đổi mới công tác truyền thông KHXH: phổ biến thông tin KHXH theo hướng dễ hiểu, trực quan, gần gũi với đời sống người dân; ứng dụng các nền tảng truyền thông số như mạng xã hội, podcast, infographics… để truyền tải tri thức KHXH đến với công chúng.
- Tăng cường vai trò của thông tin KHXH trong quản trị nhà nước và doanh nghiệp: yêu cầu các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp lớn phải sử dụng kết quả nghiên cứu KHXH trong xây dựng chiến lược, chính sách; hình thành các đơn vị phân tích xã hội trong cơ quan hành chính, tập đoàn kinh tế.
Kết luận
Thông tin KHXH không chỉ là sản phẩm tri thức thuần túy, mà còn là công cụ quyền lực mềm để tổ chức sự phát triển đất nước một cách bền vững, nhân văn và hiệu quả trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thông tin KHXH không chỉ là chiếc la bàn định hướng sự phát triển, mà còn là chất xúc tác để đổi mới mô hình tăng trưởng, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đầu tư vào nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng thông tin KHXH là đầu tư cho sức mạnh mềm và sự trường tồn quốc gia, là một trong những đòi hỏi cấp bách để quốc gia “bước ra thế giới” bằng chính bản lĩnh và giá trị riêng của mình./.
Tài liệu tham khảo
- Anthony Giddens (1994), Beyond Left and Right: The Future of Radical Politics, Stanford University Press.
- Douglass North (1990), Institutions, Institutional Change and Economic Performance, Cambridge University Press.
- Edward Said (1978), Orientalism, Pantheon Books.
- Karl Marx (1867), Tư bản: Phê phán khoa kinh tế chính trị, Tập 1, chương 15, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2022.
- Manuel Castells (1996), The Rise of the Network Society, Blackwell Publishers Ltd.
- Nghiêm Đình Vỹ (2015), “Phát huy vai trò khoa học xã hội trong quá trình đào tạo đội ngũ nhà giáo, góp phần phát triển khoa học giáo dục thời kỳ hội nhập quốc tế”, Bản tin Giáo dục, số 45.
- Nguyễn Ngọc Cường, Phạm Văn Hưng (2024), “Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn: Những vấn đề có tính nguyên tắc”, Tạp chí Khoa học và công nghệ Việt Nam, số 4.
- Phạm Hồng Tuấn (2019), “Vai trò của khoa học xã hội và nhân văn trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí Khoa học chính trị, số 1, tr. 52-57.
- Phạm Văn Sáng (2012), “Vai trò của khoa học xã hội đối với quá trình phát triển bền vững ở Đồng Nai”, Tạp chí Thông tin Khoa học công nghệ, số 4.
- Phùng Hữu Phú (2025), “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và những yêu cầu lịch sử”, Tạp chí Cộng sản ngày 03/01/2025, https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-va-nhung-yeu-cau-lich-su.
- Phùng Thị Việt Hà (2019), Đề tài khoa học cấp Bộ Vai trò của thông tin khoa học đối với việc hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội địa phương của đội ngũ lãnh đạo cấp tỉnh, Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- V. I. Lenin (1913), Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, https://www.marxists.org/vietnamese/lenin/1913/03/three_sources.htm.
- William Leiss and etc. (1992), Risk Society: Towards a New Modernity, Sage Publications.