Về các vấn đề xã hội trong “Dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng”

15:40 04/08/2025
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện chính trị trọng đại, mang ý nghĩa chiến lược đối với toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong việc hoạch định đường lối phát triển đất nước giai đoạn 2026-2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường, Đại hội Đảng lần thứ XIV được kỳ vọng sẽ mở ra một giai đoạn phát triển mới toàn diện, bao trùm và bền vững cho đất nước. Trong quá trình chuẩn bị Đại hội, Dự thảo các văn kiện đặc biệt nhấn mạnh các vấn đề xã hội như một trụ cột của phát triển bền vững và là nền tảng xây dựng chính sách thích ứng với yêu cầu hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Trong Dự thảo, các vấn đề xã hội như bất bình đẳng, lao động - việc làm, già hóa dân số, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa - đạo đức - lối sống, đô thị hóa và phát triển bền vững… tiếp tục được đặt ra như những vấn đề cốt lõi. Tuy nhiên, phạm vi và chiều sâu phân tích của các vấn đề đã được mở rộng đáng kể, phản ánh sự đổi mới trong tư duy và cách tiếp cận chính sách xã hội của Đảng. Đặc biệt, trong Dự thảo lần này, các vấn đề xã hội mới nảy sinh từ quá trình chuyển đổi số được đặc biệt quan tâm, thể hiện tầm nhìn chiến lược và năng lực thích ứng của Đảng trước bối cảnh mới.

Một trong những vấn đề xã hội được nhắc đến nhiều trong Dự thảo lần này là bất bình đẳng xã hội. Dự thảo nhấn mạnh yêu cầu và mục tiêu “đảm bảo mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu có chất lượng” và đảm bảo “không để ai bị bỏ lại phía sau” (1). Tuy nhiên, không chỉ giới hạn ở chênh lệch thu nhập hay khoảng cách vùng miền, bất bình đẳng được Dự thảo nhận diện một cách toàn diện hơn, mở rộng trong cả khía cạnh tiếp cận tri thức, công nghệ, kỹ năng số và năng lực thích ứng. Khoảng cách kỹ năng số, chất lượng đào tạo và năng lực tự học đang trở thành những yếu tố tái tạo bất bình đẳng mới, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội phát triển nghề nghiệp và phân tầng xã hội (2).

Bên cạnh đó, Dự thảo cũng đi sâu phân tích sự biến đổi của thị trường lao động và việc làm trong bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa. Các hiện tượng như gia tăng lao động phi chính thức, sự xuất hiện của tầng lớp lao động nền tảng, tình trạng “chảy máu chất xám”, di cư lao động và phân hóa cơ hội việc làm giữa các nhóm xã hội được nhận diện là những thách thức mới, đòi hỏi phải có chính sách quản trị lao động và an sinh phù hợp. Dự thảo nhấn mạnh “năng lực và chất lượng lao động còn thấp, việc làm thiếu tính bền vững là một trong những thách thức trong mục tiêu phát triển xã hội hướng đến bền vững (3). Đây là cơ sở để thúc đẩy phát triển chất lượng nguồn lao động, hướng tới nâng cao năng lực số, tư duy phản biện, kỹ năng mềm và tinh thần học tập suốt đời - những yếu tố then chốt của nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số (4).

Tình trạng già hóa dân số được Dự thảo nhận định với mức độ cấp bách và rõ nét hơn so với trước đây. Tại Đại hội XIII, già hóa dân số chỉ là một cảnh báo mang tính chất khuyến nghị (5). Đến Dự thảo lần này, các dữ liệu về già hóa dân số đã được cập nhật và các giải pháp chính sách cụ thể hơn đã được đề xuất. Dự thảo đánh giá “xu hướng già hóa dân số đang tăng nhanh”, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu thị trường lao động, tính bền vững của quỹ hưu trí và hệ thống bảo trợ xã hội (6). Điều này đặt ra yêu cầu tái cấu trúc hệ thống chính sách hưu trí, y tế và an sinh xã hội trong bối cảnh già hóa dân số diễn ra sớm, trong bối cảnh Việt Nam chưa đạt đến ngưỡng thu nhập cao.

Song song với đó, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo cũng là những vấn đề xã hội được Dự thảo đặc biệt quan tâm. Mặc dù nhấn mạnh một số bất cập trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo về chính sách, chất lượng, hiệu quả đầu tư (7), song cũng như Cương lĩnh năm 2011, Hiến pháp 2013 và Văn kiện Đại hội XII, XIII,  Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV nhất quán khẳng định chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là tương lai của dân tộc, là động lực then chốt để phát triển phát triển nhanh và bền vững đất nước. Trong phần II, mục 3, Dự thảo khẳng định mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ phải luôn gắn với phát triển con người, vì sự phát triển toàn diện của con người (8). Bên cạnh đó, Phần II, Mục VI, Dự thảo đặt mục tiêu “Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới” (9). Đây là bước chuyển trong tư duy từ tiếp cận giáo dục truyền thống sang cách tiếp cận mới, nhấn mạnh mối quan hệ hữu cơ, bổ trợ lẫn nhau giữa giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ gắn liền với phát triển con người trong quá trình phát triển bền vững.

Đặc biệt, Dự thảo cũng dành một phần quan trọng để phân tích sự biến đổi cơ cấu gia đình và biến đổi văn hóa - đạo đức - lối sống trong thời đại số. Từ góc nhìn xã hội học, đây là sự cảnh báo về quá trình khủng hoảng chuẩn mực xã hội trong điều kiện các thiết chế truyền thống (gia đình, nhà trường, cộng đồng) suy yếu, và các giá trị mới chưa được định hình rõ ràng. Việc xây dựng hệ giá trị văn hóa ứng xử số được xác lập như một nhiệm vụ chính trị - xã hội cấp thiết (10).

Cùng với đó, quá trình đô thị hóa cũng được nêu rõ trong Dự thảo như là một thách thức xã hội lớn, nhất là khi tăng trưởng kinh tế không đi kèm với bảo vệ môi trường. Các nguy cơ như ô nhiễm, biến đổi khí hậu, quá tải hạ tầng đô thị, thiếu quy hoạch vùng và mất cân bằng sinh thái được nhận diện rõ ràng, cho thấy yêu cầu cấp thiết phải điều chỉnh chiến lược phát triển đô thị theo hướng bền vững và cân bằng. Điều này phù hợp mục tiêu mà Dự thảo đặt ra “Xây dựng, hoàn thiện thể chế bảo vệ môi trường sinh thái với phương châm “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế” (11).

Một điểm nhấn quan trọng khác trong Dự thảo lần này là chủ đề ứng dụng công nghệ số vào mọi mặt của đời sống xã hội, mà điểm sáng là ứng dụng công nghệ và dữ liệu số vào quản trị xã hội. Tại mục VIII, Dự thảo khẳng định mục tiêu “Đẩy mạnh xây dựng chính phủ số, xã hội số, đáp ứng yêu cầu kiến tạo phát triển và quản lý phát triển xã hội bền vững” (12). Việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động quản lý hành chính Nhà nước vừa là yêu cầu mang tính thời đại, vừa thể hiện bước chuyển mạnh mẽ từ mô hình quản lý hành chính truyền thống sang mô hình quản trị xã hội hiện đại, minh bạch và hiệu quả. Đây không chỉ là việc đổi mới về phương thức thực thi chính sách mà còn là một trong những phương thức quản lý xã hội bền vững, góp phần tăng cường niềm tin xã hội đối với thể chế chính trị trong thời đại số, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ số một cách hiệu quả, đảm bảo hội nhập và phát triển đất nước bền vững là vấn đề xã hội đang được quan tâm và tìm hiểu.

Từ góc nhìn tổng thể, các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội bền vững cũng được Dự thảo đặc biệt nhấn mạnh. Theo đó, việc xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể phát triển xã hội bền vững, chú trọng “giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý hiệu quả, kịp thời, hiệu quả các rủi ro, các vấn đề an sinh xã hội, giáo dục, đào tạo khoa học và công nghệ, dân tộc, tôn giáo” (12).

Có thể thấy rằng, Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tổng kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, đồng thời định hướng phát triển đất nước đến năm 2045, với mục tiêu tổng quát là “xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát triển nhanh và bền vững”. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường, việc xác định rõ các vấn đề xã hội đặt ra và đề xuất hệ thống giải pháp tương ứng là một yêu cầu cấp thiết để đảm bảo phát triển toàn diện, bao trùm và bền vững. Từ tổng thể các nội dung nêu trên, có thể thấy Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV thể hiện bước tiến lớn trong nhận thức và xử lý các vấn đề xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Các vấn đề xã hội không còn được xem như hệ quả phát triển cần khắc phục, mà đã được nhìn nhận như là nền tảng, điều kiện và mục tiêu của quá trình phát triển bền vững. Việc lồng ghép chính sách xã hội với chuyển đổi số, quản trị hiện đại, đổi mới giáo dục và bảo vệ văn hóa - đạo đức cộng đồng là minh chứng rõ rệt cho tư duy tích hợp và chủ động của Đảng trong giai đoạn mới.

Nhìn chung, việc nhấn mạnh các vấn đề xã hội trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng không chỉ phản ánh tư duy chính trị nhạy bén và năng lực quản trị quốc gia ngày càng được nâng cao, mà còn thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược mang tính nhân văn sâu sắc của Đảng trong quá trình lãnh đạo phát triển đất nước. Đó là tầm nhìn về một Việt Nam phát triển toàn diện và bền vững, nơi mọi người dân đều có cơ hội tham gia, đóng góp và thụ hưởng thành quả từ tiến trình hội nhập quốc tế, hiện đại hóa và chuyển đổi số. Nhưng mặt khác, từ góc độ nghiên cứu lý luận, điều đó cũng thể hiện rất nhiều vấn đề xã hội đang đặt ra hết sức cấp bách, cần phải có những nghiên cứu cơ bản, đa chiều để cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và điều chỉnh chính sách.

Chú thích

(1) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 41.

(2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 37-38.

(3) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.156

(4) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 37-38.

(5) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2020), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.138.

(6) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 25.

(7) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.155.

(8) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.110-112.

(9) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.36.

(10) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.105-110.

(11) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.30.

(12) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.41.

(13) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025), Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.112.

Nguồn: Chi bộ Viện Xã hội học và Tâm lý học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Tác Giả: Lê Thị Hoa

In trang Chia sẻ

Tin khác