Về hệ giá trị Quốc gia trong “Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng”

17:43 19/06/2025
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +

Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, bên cạnh việc không ngừng đổi mới tư duy kinh tế, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã sớm nhấn mạnh yêu cầu xây dựng các giá trị và hệ giá trị, chuẩn mực như là nền tảng tinh thần cho xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng đặt vấn đề về giá trị đạo đức: “khẳng định mạnh mẽ và truyền bá rộng rãi những giá trị đạo đức mới”[1]. Đại hội Đảng lần thứ VIII đưa ra yêu cầu chung về hệ giá trị: “Hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”[2]. Đại hội Đảng lần thứ X và XI nhấn mạnh giá trị con người: “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam”[3], “đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”[4]. Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra nhiệm vụ “đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”[5].

Đến Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng xác định rõ “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới” là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên, “hệ giá trị quốc gia”[6] và việc xây dựng hệ giá trị quốc gia được đưa vào văn kiện của một kỳ đại hội Đảng, cũng là lần đầu tiên việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ chuẩn mực con người, hệ giá trị gia đình được đặt trong một thể thống nhất, gắn kết chặt chẽ với nhau.

Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, các quan điểm, nhận định, yêu cầu của Đảng về xây dựng các hệ giá trị, chuẩn mực được nhắc đến ở phần V (Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam) của bản Tóm tắt Dự thảo Báo cáo chính trị và ở các phần III (những thành tựu, hạn chế), IV (vấn đề đặt ra, bài học kinh nghiệm) của Tóm tắt Dự thảo tổng kết 40 năm đổi mới.

Tại mục V (Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam), bản Tóm tắt Dự thảo Báo cáo chính trị đã tiến thêm một bước so với các kỳ Đại hội Đảng trước đây khi xác định rõ nội dung các hệ giá trị, chuẩn mực, gồm: hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình, hệ chuẩn mực con người. Đây là một bước phát triển, cụ thể hóa yêu cầu nghiên cứu, xây dựng các hệ giá trị, chuẩn mực đã được đặt ra tại Đại hội Đảng lần thứ XIII.

Trên thực tế, từ sau Đại hội Đảng lần thứ XIII, đã có nhiều diễn đàn, nhiều nghiên cứu ở những phạm vi, cấp độ khác nhau, từ trung ương đến địa phương, về vấn đề xây dựng các hệ giá trị, chuẩn mực. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc được tổ chức vào ngày 24/11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, trong đó đưa ra quan điểm có tính gợi mở về nội dung của các hệ giá trị, chuẩn mực. Cụ thể, bài phát biểu chỉ ra: “xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hoá gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”[7].

Với tinh thần đó, một số hội thảo khoa học cấp quốc gia, cấp bộ, cấp viện nghiên cứu đã được tổ chức với mục đích trao đổi, thảo luận, xác định nội dung các hệ giá trị, chuẩn mực cũng như xây dựng luận cứ khoa học cho việc xác lập các hệ giá trị, chuẩn mực. Nhiều chương trình nghiên cứu đã được triển khai, trong đó có thể kể đến Chương trình trọng điểm cấp Bộ “Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới” do Viện Triết học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam làm cơ quan chủ trì, huy động sự tham gia của nhiều nhà khoa học có uy tín thuộc các lĩnh vực triết học, văn hóa học, xã hội học, v.v., cho đến nay đã đạt được một số kết quả nhất định. Một điểm chung trong các nghiên cứu về các hệ giá trị, chuẩn mực con người là đều khẳng định sự cần thiết phải cụ thể hóa các hệ giá trị, chuẩn mực trong các văn kiện của Đảng, mà trước hết là trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV.

Trong bản Tóm tắt Dự thảo Báo cáo chính trị, hệ giá trị quốc gia được xác định gồm các giá trị: hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc; hệ giá trị văn hóa được xác định gồm các giá trị: dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; hệ chuẩn mực con người được xác định gồm các giá trị: yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo; hệ giá trị gia đình được xác định gồm các giá trị: tiến bộ, văn minh, ấm no, hạnh phúc. Về cơ bản, phần lớn những giá trị cụ thể nêu trên là những giá trị đã nhận được sự đồng thuận cao cả trong giới nghiên cứu khoa học lẫn trong thực tiễn đời sống của nhân dân. Riêng về hệ giá trị quốc gia, hiện đang có những điểm mới với một số bổ sung, điều chỉnh, cụ thể: bổ sung thêm giá trị “phồn vinh”, đưa ra giá trị “giàu mạnh” trên cơ sở kết hợp hai giá trị “dân giàu” và “nước mạnh”, không đề cập đến giá trị “công bằng”.

Như vậy, nhìn vào sự cụ thể hóa các thành tố của hệ giá trị quốc gia (từ Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 đến Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng), có thể thấy một sự nhất quán cao trong việc lựa chọn các thành tố trong hệ giá trị quốc gia trong thời kỳ mới. Từ những nghiên cứu về lịch sử tư tưởng của dân tộc Việt Nam nói riêng và của nhân loại nói chung, chúng tôi có một số đề xuất sau:

1. Trước hết, cần cân nhắc bổ sung thêm giá trị “tự do” vào hệ giá trị quốc gia. Bởi lẽ, tự do là một giá trị cốt lõi trong học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa Mác - Lênin là giải phóng toàn diện con người, tiến tới xây dựng chủ nghĩa cộng sản với tính cách một hình thái kinh tế - xã hội. Điều này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, rằng: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[8].

Hơn nữa, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giá trị tự do có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện ở các khía cạnh như sau:

Thứ nhất, tự do là ước nguyện, mục đích tối cao trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh chỉ có “một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”[9]. Hành trình ra nước ngoài tìm đường cứu nước của Người là để “đồng bào được tự do, Tổ quốc được độc lập”.

Thứ hai, tự do là quyền cơ bản của con người. Tiếp thu một cách chọn lọc và sáng tạo tư tưởng cách mạng tư sản Pháp (tư tưởng về “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”), cũng như tư tưởng chủ đạo của bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ về quyền con người được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc, Hồ Chí Minh, trong bản Tuyên ngộc Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào tháng 9 năm 1945, đã mở rộng quyền con người (mang tính cá nhân của cách mạng tư sản) thành quyền của dân tộc qua việc khẳng định một chân lý mới của thời đại là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[10]; và, hùng hồn khẳng định rằng, dân tộc Việt Nam là dân tộc đã “gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”[11]. Người đã nêu cao quyết tâm chiến đấu bảo vệ và giữ vững quyền thiêng liêng đó của dân tộc: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”[12].

Trong lời kêu gọi Thi đua ái quốc ngày 11/6/1946, Người chỉ rõ: “Mỗi người dân Việt Nam bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa” để: “Toàn dân đủ ăn đủ mặc, Toàn dân biết đọc, biết viết, Toàn bộ đội đầy đủ lương thực, khí giới để diệt ngoại xâm. Toàn quốc sẽ thống nhất độc lập hoàn toàn. Thế là chúng ta thực hiện: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc, Ba chủ nghĩa mà nhà đại cách mạng Tôn Văn đã nêu ra”[13].

Thứ ba, tự do là một giá trị cốt lõi trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, đến năm 1945, cùng với Độc lậpHạnh phúc, Tự do đã được chính thức ghi trong tiêu ngữ dưới Quốc hiệu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và lần đầu tiên được chính thức xuất hiện trong Sắc lệnh Luật số 50 ngày 09/10/1945. Những giá trị cốt lõi đó đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong chính sách của Nhà nước Việt Nam: “Chính sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” [14].

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người tiếp tục khẳng định tự do là một giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do[15].

Thứ tư, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới đem lại quyền tự do và hạnh phúc cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “Tự do” và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập”, nhưng đó phải là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bởi vì: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”[16]; “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”[17].

Mặc dù tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng Pháp cũng như việc nhấn mạnh đến quyền tự do con người của cách mạng Mỹ đã được nêu ra, nhưng Hồ Chí Minh nhận thấy rằng, ở Mỹ “tuy rằng cách mạng đã thành công hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mạng lần thứ hai. Ấy là vì cách mạng Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”[18]. Còn ở Pháp, cũng không có tiến bộ hơn là bao nhiêu: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục) công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”[19]. Những cuộc cách mạng không triệt để như vậy chỉ là sự thay đổi các chế độ xã hội dựa trên bóc lột và không có khả năng giải phóng con người, đặc biệt là tầng lớp lao động khỏi áp bức, bóc lột. Sau khi lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, giành lại độc lập và chủ quyền cho dân tộc, tự do cho nhân dân, nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất mà Hồ Chí Minh hướng đến là hạnh phúc cho toàn thể nhân dân: “các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu sự tự do hạnh phúc cho mọi người”[20]. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh nhận thức rõ rằng, mục đích giành lại độc lập là để đem lại cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân. Bởi lẽ, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[21]; và, “chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[22]. Mục đích của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng được Hồ Chí Minh nêu một cách rõ ràng và dễ hiểu: “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no”[23]; “nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”[24]. Sau khi cách mạng thành công, Hồ Chí Minh đề ra những công việc cần ngay lập tức phải thực hiện để tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình.

Hồ Chí Minh đặt giá trị tự do vào hệ giá trị cốt lõi là: Độc lập, tự do, hạnh phúc. Theo Người, giữa các giá trị này có quan hệ biện chứng, mật thiết. Độc lập chính là điều kiện tiên quyết để có được tự do và có độc lập, tự do là để vươn tới hạnh phúc; tự do và hạnh phúc của dân tộc, của nhân dân chính là thước đo của một nền độc lập thực sự. Cho nên, có thể khẳng định, một trong những giá trị, khát vọng mãnh liệt của nhân dân Việt Nam chính là tự do.

Như vậy, trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và, đặc biệt là, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do, có thể nói, giá trị tự do cần được xác định là một thành tố của hệ giá trị quốc gia trong kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam.

2. Đối với giá trị “giàu mạnh”, việc đề xuất giá trị này như một giá trị có tính tổng hợp của “dân giàu”, “nước mạnh” là hợp lý, vì vừa đảm bảo tính súc tích, vừa phù hợp với thực tế mối quan hệ mật thiết giữa “dân giàu” và “nước mạnh”. Dân giàu thì nước mới mạnh, và nước mạnh phải được xây dựng trên cơ sở dân giàu. Tuy nhiên, việc bổ sung giá trị “phồn vinh” có lẽ cần được cân nhắc thêm. Bởi lẽ, về ngữ nghĩa, “phồn vinh” có ý nói đến sự giàu có, đông đúc, thịnh vượng, cho nên có nhiều sự tương đồng với “giàu mạnh”. Để đảm bảo tính đại diện, súc tích của hệ giá trị quốc gia, có lẽ, chỉ nên đưa một trong hai giá trị hoặc “giàu mạnh”, hoặc “phồn vinh” vào hệ giá trị quốc gia. Trong đó, giá trị “giàu mạnh” có lẽ là lựa chọn tối ưu hơn.

3. Đối với các giá trị quốc gia khác, chúng tôi đề xuất tiếp tục đưa giá trị “công bằng” vào hệ giá trị quốc gia. Giá trị “công bằng” là một giá trị quan trọng, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng, vốn đã được nhắc đến trong bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, cũng như trong nhiều văn kiện của Đảng. Đảng luôn khẳng định yêu cầu phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, trong hệ giá trị quốc gia, bên cạnh những giá trị liên quan đến phát triển (ví dụ như giàu mạnh), thì cũng cần có giá trị về công bằng.

Nói tóm lại, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng có nhiều phần đề cập đến nội dung xây dựng hệ giá trị quốc gia, đặc biệt là đã xác định rõ các thành tố nằm trong hệ giá trị quốc gia. Điều đó cho thấy sự quan tâm của Đảng đối với vấn đề hệ giá trị quốc gia, đồng thời cho thấy nhiệm vụ nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng các hệ giá trị, chuẩn mực được đặt ra tại Đại hội XIII đã đạt được những thành tựu nhất định. Việc tiếp tục cụ thể hóa nội dung này trong các văn kiện của Đại hội XIV là cần thiết, để tạo nền tảng cho việc tiếp tục triển khai xây dựng, phổ biến và đưa vào đời sống các hệ giá trị, chuẩn mực một cách sâu, rộng trên phạm vi cả nước.

 


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, phần I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.123.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, phần I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.712.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, phần II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.119.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, phần II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.426.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, phần II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.672.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.143.

[7] Toàn văn phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc (2021), https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-van-hoa-toan-quoc.html.

[8] C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.628.

[9] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.187.

[10] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.1.

[11] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.3.

[12] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.3.

[13] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.558.

[14] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.199.

[15] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.131.

[16] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.496.

[17] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.610.

[18] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.291.

[19] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.296.

[20] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.21.

[21] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.64.

[22] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.51.

[23] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.433.

[24] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.415.

Nguồn: Chi bộ Viện Triết học

Tác Giả: Trần Tuấn Phong và Hoàng Minh Quân

In trang Chia sẻ

Tin khác