Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính Người là một mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Người luôn phê phán thói "quan cách mạng", những biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng, coi thường tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là những căn bệnh khác nhau của chủ nghĩa cá nhân. Người cho rằng, nếu kỷ luật của Đảng lỏng lẻo thì những kẻ cơ hội, những phần tử phản động dễ dàng chui vào hàng ngũ để phá hoại Đảng. Kỷ luật Đảng rõ ràng, chặt chẽ, nghiêm minh là điều kiện quan trọng bảo đảm cho Đảng thật sự là một khối đoàn kết, thống nhất trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện thắng lợi.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên, khi nào và ở đâu cũng phải chịu sự phân công, quản lý của tổ chức đảng, phải hành động theo phạm vi kỷ luật của tổ chức, phải chấp hành nghị quyết, chỉ thị một cách nghiêm túc, đúng đắn, sáng tạo. Hồ Chí Minh yêu cầu những đảng viên giữ vị trí càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che. Trong bất kỳ trường hợp nào, Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật. Để bảo đảm kỷ luật được chặt chẽ, tự giác phải mở rộng, tăng cường dân chủ trong Đảng. Hai mặt dân chủ và kỷ luật trong Đảng phải luôn luôn đi đôi với nhau. Có mở rộng và tăng cường dân chủ trong Đảng thì mới bảo đảm được kỷ luật và có bảo đảm được kỷ luật thì mới tăng cường được dân chủ.
Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở bất cứ cương vị nào cũng phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Trong đấu tranh cách mạng và kháng chiến gian khổ, cán bộ ta biết dựa vào dân, được dân nuôi dưỡng, che chở, đùm bọc, cưu mang… nên rất thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” nhưng khi cách mạng đã thành công rồi, nhiều người lại quên mất công lao của nhân dân, chỉ thấy công lao của cá nhân mình, tinh thần phục cụ nhân dân đã nhường chỗ cho những tính toán vị kỷ, không còn là “đầy tớ” mà lại sách nhiễu, ức hiếp, bòn rút dân, gây cho dân bao khổ sở, oan trái, gây mất ổn định xã hội, họ quên rằng: Mất lòng dân là mất tất cả. Việc học tập đạo đức Hồ Chí Minh là phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình khi dân còn nghèo đói. Không chỉ chia sẻ và đồng cam, cộng khổ với nhân dân, mà còn phải biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân dân, phấn đấu thoát khỏi đói nghèo. Nhân dân là người thầy nghiêm khắc và nhân ái, luôn luôn đòi hỏi cao ở cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng sẵn lòng giúp đỡ cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là những giá trị trường tồn, là đúc kết đỉnh cao của tư tưởng cách mạng triệt để của một nhân cách vĩ đại đã toàn tâm toàn ý phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, tùy theo điều kiện lịch sử của từng thời kì mà có sự vận dụng thích hợp, nhấn mạnh điểm này hay điểm khác cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở bất cứ cương vị nào cũng phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình trước nhân dân. Không chỉ sẻ chia và đồng cam, cộng khổ với nhân dân, mà còn phải biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân dân vươn lên trong cuộc sống. Nhân dân là “người thầy” nghiêm khắc và nhân ái, luôn đòi hỏi cao ở cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng sẵn lòng giúp đỡ cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình. Người dạy cán bộ, đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm, không sợ phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm ngày càng to và hư hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu, theo tư tưởng Hồ Chí Minh "phải nghiêm khắc với chính mình". Phê bình phải có mục đích là xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng chí, quan hệ xã hội lành mạnh, trong sáng, có lý, có tình. Phải khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen, (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà "đấu đá", nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ. Học tập và làm theo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Mọi biểu hiện dân chủ, hình thức, lợi dụng dân chủ để kéo bè, kéo cánh, để làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh trục lợi hoặc chuyên quyền độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần chúng…. Làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại bỏ và nghiêm trị.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, gắn bó với nhân dân là một nội dung thiết thực, qua đó nhận thức rõ quyền lực thuộc về nhân dân, ý thức dân chủ kỷ luật chính là nền tảng để thực hiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay./.
Ban Biên tập