Hoàn thiện thể chế pháp lý phát triển thị trường lao động tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia

18:14 03/11/2025
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +
Ngày 31/10/2025, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Hàn lâm) phối hợp với Viện Friedrich Naumann Foundation for Freedom (Viện FNF), Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức Hội thảo quốc tế với chủ đề “Thể chế pháp lý phát triển thị trường lao động tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia: Kinh nghiệm Cộng hòa liên bang Đức và gợi mở cho Việt Nam” theo hình thức trực tiếp tại số 1 Liễu Giai, Hà Nội kết hợp trực tuyến trên nền tảng Zoom.

 

Tham dự hội thảo có PGS.TS Tạ Minh Tuấn (Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm), bà Vanessa Kristina Steinmetz (Giám đốc Quốc gia Viện FNF Việt Nam) cùng đông đảo các đại biểu, chuyên gia, nhà khoa học đến từ các cơ quan ban ngành, cơ sở nghiên cứu, đào tạo.

Đồng chủ trì hội thảo: TS. Phạm Thị Thúy Nga (bên phải) và TS. Nguyễn Linh Giang

TS. Phạm Thị Thuý Nga (Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật) và TS. Nguyễn Linh Giang (Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật) đồng chủ trì hội thảo.

Phát biểu khai mạc hội thảo, PGS.TS. Tạ Minh Tuấn cho biết, thị trường lao động được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) xác định là một trong mười hai trụ cột cấu thành năng lực cạnh tranh quốc gia. Một thể chế lao động năng động, linh hoạt và công bằng không chỉ bảo đảm quyền và lợi ích của người lao động, mà còn là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, chuyển đổi số và toàn cầu hóa. Thể chế thị trường lao động hiện đại cũng chính là cơ chế trung tâm để bảo đảm tăng trưởng bao trùm, bền vững và nhân văn.

Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Tạ Minh Tuấn nêu rõ, Việt Nam hiện đang trong giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ khi thế giới đang trải qua cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo, sự phát triển của các mô hình kinh tế mới như kinh tế nền tảng, kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn; đồng thời cũng phải đối diện với nhiều vấn đề xã hội như già hóa dân số, giảm tỷ lệ sinh. Trong khi đó, Việt Nam đang đẩy mạnh triển khai Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021 - 2030, Chiến lược phát triển nhân lực 2021 - 2030 và đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW (22/12/2024) của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm PGS.TS. Tạ Minh Tuấn phát biểu khai mạc hội thảo

“Để thực hiện thành công các Chiến lược, Nghị quyết quan trọng nêu trên đặt ra yêu cầu cấp bách phải hoàn thiện thể chế pháp luật về thị trường lao động, nhằm chuyển từ mô hình thụ động sang mô hình thị trường lao động chủ động – linh hoạt – hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia.” - Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Tạ Minh Tuấn nêu rõ năm 2025 đánh dấu 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Cộng hòa Liên bang Đức. PGS.TS. Tạ Minh Tuấn bày tỏ tin tưởng hội thảo sẽ đóng góp thiết thực cho việc tăng cường hợp tác chiến lược giữa hai nước trong lĩnh vực pháp luật, lao động và quản trị phát triển, đồng thời cung cấp các luận cứ khoa học đáng tin cậy phục vụ hoạch định chính sách và thực thi cải cách thị trường lao động ở Việt Nam.

Từ Thái Lan, trên nền tảng trực tuyến, bà Vanessa Steinmetz đã phát biểu chào mừng và chúc cho hội thảo diễn ra thành công tốt đẹp.

 Bà Vanessa Steinmetz phát biểu chào mừng hội thảo trên nền tảng trực tuyến

Hội thảo bắt đầu với phiên thứ nhất “Thực trạng thể chế pháp lý trong phát triển thị trường lao động ở Việt Nam và giải pháp hoàn thiện trong bối cảnh nâng cao năng lực quốc gia”. Mở đầu phiên, TS. Hà Thị Hoa Phượng (Trường Đại học Luật Hà Nội) phân tích mối quan hệ giữa chuyển đổi số và phát triển kỹ năng, chuyển đổi nghề của người lao động trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng. Trên cơ sở hệ thống hóa khung pháp lý hiện hành, nghiên cứu chỉ ra khoảng trống chính sách về lao động phi chính thức, cơ chế tài chính - an sinh gắn đào tạo lại và thiếu chuẩn dữ liệu kỹ năng quốc gia.

Theo đó, TS. Hà Thị Hoa Phượng đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, bao gồm: Hoàn thiện khung pháp lý về lao động phi chính thức; cải cách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo; xây dựng chuẩn dữ liệu kỹ năng; phát triển nền tảng giáo dục nghề nghiệp số; gắn kết nhà trường và doanh nghiệp; chính sách bao trùm cho nhóm yếu thế; thí điểm mô hình đổi mới theo ngành và địa phương; và nâng cao năng lực nhận thức và văn hóa học tập của người lao động.

Tại tham luận “Bảo đảm việc làm bền vững và an sinh xã hội trong bối cảnh hiện nay: Động lực và thách thức cho năng lực cạnh tranh quốc gia”, PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Hương (Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học – Xã hội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ)) nhấn mạnh, trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, việc làm bền vững và an sinh xã hội không chỉ là mục tiêu xã hội mà còn là yếu tố chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Hương trình bày tham luận của mình

PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Hương cho biết, các cản trở chính của thị trường lao động Việt Nam trong việc đáp ứng các mục tiêu của phát triển kinh tế mới và các mục tiêu an sinh xã hội gồm: Lao động không sử dụng hết tiềm năng; việc làm phi chính thức và khu vực phi chính thức giảm chậm; nhân lực phân bố không đồng đều giữa các khu vực, ngành kinh tế, làm mất cân đối nhu cầu nhân lực và nhu cầu việc làm; kết nối cung-cầu lao động vẫn còn nhiều vấn đề… Do đó, tác giả cho rằng để bảo đảm việc làm bền vững cần phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo và giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tư nhân; thúc đẩy việc làm bền vững, chất lượng cao và bao trùm; tăng cường cải cách chính sách lao động, việc làm; cải cách quan hệ lao động và bảo vệ quyền lợi người lao động: Hài hòa, ổn định và tiến bộ.

Chia sẻ về thực trạng thể chế bảo vệ người lao động trong nền kinh tế số, phi chính thức ở Việt Nam, TS. Hoàng Kim Khuyên (Viện Nhà nước và Pháp luật) cho biết, lao động phi chính thức chiếm 62,4% tổng việc làm, cao nhất ở khu vực nông, lâm, ngư nghiệp (98,5%). Trong khi đó, Báo cáo Fairwork Việt Nam 2023 cho thấy hầu hết các nền tảng chỉ đạt 02–04/10 điểm về bảo vệ người lao động, phản ánh mức độ bảo vệ còn rất hạn chế. Những thực trạng trên đặt ra thách thức lớn cho Việt Nam trong hoàn thiện thể chế bảo vệ người lao động giữa bối cảnh chuyển đổi số và linh hoạt hóa việc làm, khi hệ thống pháp luật hiện hành vẫn dựa trên mô hình truyền thống.

Thực trạng bảo vệ người lao động được xác lập dựa trên các nguyên tắc nhân quyền lao động và cam kết quốc tế. Tuy nhiên, khoảng cách lớn giữa cam kết và thực tiễn vận hành thể hiện qua hai vấn đề chính: (i) Khoảng cách giữa tiêu chuẩn quốc tế và thực thi trong nước; (ii) Phần lớn người lao động đứng ngoài luật chơi. Trong đó, Việt Nam đã phê chuẩn 9/10 Công ước cơ bản của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thể hiện cam kết mạnh mẽ. Tuy nhiên, việc nội luật hóa và thực thi còn nhiều bất cập, đặc biệt qua ví dụ về Công ước 190 về Bạo lực và Quấy rối.

 TS. Hoàng Kim Khuyên chỉ ra những thách thức đặc thù của lao động nền tảng số và hạn chế trong thực thi, nhận thức

Sau khi chỉ ra những thách thức đặc thù của lao động nền tảng số và hạn chế trong thực thi và nhận thức, TS. Hoàng Kim Khuyên đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện trong bối cảnh nâng cao năng lực quốc gia. Bên cạnh việc đẩy nhanh tiến trình phê chuẩn và nội luật hóa các công ước ILO còn lại, tạo cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ quyền lao động thì cần hoàn thiện thể chế bao trùm thích ứng với kinh tế số. Việc hoàn thiện thể chế phải hướng tới mô hình bảo vệ linh hoạt, bao phủ toàn dân, chuyển từ tư duy bảo vệ người lao động có hợp đồng sang bảo đảm quyền lao động cho mọi người làm việc.

Bình luận về tham luận của TS. Hoàng Kim Khuyên, TS. Nguyễn Hoàng Hà (chuyên gia luật lao động, Văn phòng ILO tại Việt Nam) cho rằng, chuỗi giá trị chính sách bảo vệ người lao động bao gồm thiết kế chính sách, thực thi chính sách, giám sát đánh giá, phản hồi, điều chỉnh chính sách, trong đó, thiết kế chính sách khá tốt nhưng điểm nghẽn là ở thực thi chính sách còn giám sát đánh giá và phản hồi thì yếu.

Buổi chiều tiếp tục diễn ra với phiên thứ hai, “Thể chế trong phát triển thị trường lao động: Kinh nghiệm từ CHLB Đức”. Ông Tobias Oelsner (Thẩm phản Tòa án Khu vực Berlin) đã chia sẻ vai trò của các thiết chế trong việc hoàn thiện thể chế pháp luật thị trường lao động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bao gồm: Tòa án Lao động, Cơ quan việc làm liên bang và các đối tác xã hội. Các quy định pháp lý rõ ràng, có thể dự đoán và được thực thi hiệu quả đã khuyến khích doanh nghiệp đầu tư và đổi mới sáng tạo. Các chương trình của Cơ quan việc làm cung cấp đào tạo lại và nâng cao kỹ năng, đóng vai trò quan trọng trong việc thích ứng với thay đổi công nghệ. Đức đảm bảo rằng mọi người lao động, bao gồm lao động bán thời gian, tạm thời và ngày càng nhiều lao động trên nền tảng số, đều được hưởng bảo hiểm xã hội và quyền lao động. Sự hòa nhập này giúp củng cố gắn kết xã hội và tăng độ tin cậy của lực lượng lao động quốc gia. Những yếu tố này đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. 

PGS.TS. Phạm Hữu Nghị (giữa) trao đổi về chính sách của Đức với người lao động là người nước ngoài

Trong thảo luận, PGS.TS. Phạm Hữu Nghị hỏi về chính sách của Đức với người lao động là người nước ngoài, bao gồm người đã có giấy phép lao động, người lao động bất hợp pháp, người tị nạn. Ông Tobias cho biết, với người nước ngoài, khi đã có giấy phép lao động thì không có sự phân biệt đối xử với người Đức. Người lao động bất hợp pháp thì họ không có quyền lao động vì không có hợp đồng lao động, sẽ không có bảo hiểm xã hội, các quyền an sinh xã hội không được bảo đảm.

Tiếp theo, ông Michael Schmidt (Nguyên Chủ tịch Hội đồng nhân viên chính tại Bộ lao động và các vấn đề xã hội CHLB Đức) giới thiệu về mô hình thị trường lao động chủ động tại CHLB Đức. Hiện quốc gia châu Âu này đang phổ biến chương trình đào tạo kép, đào tạo chủ yếu được thực hiện tại doanh nghiệp, được hỗ trợ bởi các giờ học lý thuyết tại trường dạy nghề. Tác giả chỉ ra những hướng tiếp cận chính sách khả thi như: Kéo dài thời gian làm việc phù hợp với tuổi thọ trung bình tăng lên; Thực hiện các biện pháp chính sách gia đình (hỗ trợ cân bằng giữa công việc và cuộc sống gia đình); Khuyến khích nhập cư; Tạo ra các điều kiện khung nhằm đảm bảo người lao động lớn tuổi được duy trì hoặc quay lại làm việc…

Ông Michael Schmidt với tham luận về mô hình thị trường lao động chủ động tại CHLB Dức

Tham luận cuối là của TS. Nguyễn Hoàng Hà có chủ đề “Định hướng và giải pháp hoàn thiện thể chế pháp luật phát triển thị trường lao động ở Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia”. Về khung pháp lý và vấn đề thực thi, Việt Nam đã ban hành các đạo luật nền tảng như Bộ luật Lao động, Luật Việc làm. Tuy nhiên, thực thi yếu và quy định lỗi thời cản trở đến giám sát và tuân thủ cũng như chưa bao phủ các lĩnh vực mới như công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI). Sau khi chỉ ra những thách thức, TS. Nguyễn Hoàng Hà đề xuất giải pháp và lộ trình cải cách. Trước tiên, cần sửa đổi luật để bao phủ lao động nền tảng số và nột luật hóa với các tiêu chuẩn quốc tế nhằm tăng tính thực thi. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về việc làm và kỹ năng hỗ trợ việc ban hành chính sách và dự báo thị trường lao động. Cải thiện trung tâm giới thiệu việc làm, hỗ trợ nhóm yếu thế, thúc đẩy vai trò doanh nghiệp trong đào tạo. Trong tầm nhìn dài hạn, từ năm 2030 trở đi, cần xây dựng Bộ luật Thị trường lao động, tòa án chuyên biệt, tích hợp chiến lược số và xanh.

 TS. Nguyễn Hoàng Hà, chuyên gia luật lao động, Văn phòng ILO tại Việt Nam

Hội thảo cũng nhận được nhiều trao đổi từ các chuyên gia Đức và Việt Nam. Các cuộc thảo luận sôi nổi và xoay quanh chủ đề về kinh nghiệm của hai nước trong việc xây dựng thể chế pháp lý nhằm phát triển thị trường lao động hiệu quả và bền vững.

Phát biểu kết thúc hội thảo, TS. Nguyễn Linh Giang hy vọng và mong muốn, những trao đổi tại hội thảo sẽ là những gợi ý cho các nhà khoa học trong các hoạt động nghiên cứu tiếp theo. Kết quả từ hội thảo sẽ được tổng hợp thành bản tư vấn chính sách gửi đến cơ quan có liên quan. Hy vọng các kiến nghị thu được từ hội thảo sẽ tác động tích cực đến chính sách pháp luật của Việt Nam. TS. Nguyễn Linh Giang gửi lời cám ơn chân thành đến Viện FNF Việt Nam đã tài trợ để tổ chức thành công hội thảo; các chuyên gia Đức và Việt Nam đã nhiệt tình tham gia hội thảo.

Toàn thể hội thảo chụp ảnh kỷ niệm

 

Nguồn: Trang thông tin điện tử Viện Nhà nước và Pháp luật

In trang Chia sẻ

Tin khác