Đây là hoạt động nằm trong khuôn khổ chương trình “Đối thoại pháp quyền Việt Nam – CHLB Đức”, một sáng kiến hợp tác lâu dài giữa hai quốc gia, được ký kết từ năm 2009 và đã được gia hạn nhiều lần. Đặc biệt, hội thảo lần này đánh dấu lần đầu tiên Viện Friedrich Naumann Foundation for Freedom (Viện FNF) tham gia vào chương trình đối thoại quan trọng này, mang đến những góc nhìn mới mẻ và kinh nghiệm quốc tế sâu sắc.
TS. Nguyễn Linh Giang (bên trái) và TS. Phạm Thị Thúy Nga (bên phải) đồng chủ trì hội thảo
Tham gia hội thảo có bà Vanessa Steinmetz (Giám đốc Quốc gia Viện FNF Việt Nam), PGS.TS. Nguyễn Đức Minh (Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm), TS. Phạm Thị Thúy Nga (Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật), TS. Nguyễn Linh Giang (Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật), PGS.TS. Đinh Ngọc Vượng (Nguyên Phó Viện trưởng Viện Từ điển học và Bách khoa thư), PGS.TS. Phạm Hữu Nghị (Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Nhà nước và Pháp luật) cùng các đại biểu, chuyên gia, nhà khoa học đến từ các cơ quan ban ngành, cơ sở nghiên cứu, giáo dục đào tạo. Hội thảo cũng hân hạnh được đón tiếp qua hình thức trực tuyến ở đầu cầu CHLB Đức ông Konrad Rudolf Greilich (Đồng sáng lập và Giám đốc điều hành Công ty Visionary Berlin GmbH) và ông Tobias Oelsner (Thẩm phán Tòa án Khu vực Berlin).
Phát biểu khai mạc hội thảo, PGS.TS Nguyễn Đức Minh nhấn mạnh, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định thể chế, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước. Nghị quyết đặt chuyển đổi số – và kinh tế số – vào khung chính sách phát triển lớn của quốc gia, và từ đó việc xây dựng khung pháp lý và thể chế cho kinh tế số là một phần trong đó.
PGS.TS. Nguyễn Đức Minh phát biểu khai mạc hội thảo
Theo PGS.TS Nguyễn Đức Minh, kinh tế số không chỉ là một lĩnh vực mới, mà là động lực then chốt cho tăng trưởng và năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh của công nghệ, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn hay fintech cũng đặt ra nhiều thách thức cho hệ thống pháp luật và quản trị. Vì vậy, việc xây dựng một khung pháp lý phù hợp, linh hoạt và tiên tiến là yêu cầu tất yếu để định hướng phát triển đúng hướng và bền vững.
“Chủ đề hội thảo hôm nay nhấn mạnh sự cân bằng giữa hai giá trị tưởng chừng đối lập: Đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Nếu chỉ tập trung vào đổi mới mà thiếu thể chế chặt chẽ, xã hội sẽ đối mặt với rủi ro về an ninh thông tin, quyền riêng tư và bất bình đẳng số. Ngược lại, nếu quản lý quá chặt chẽ, sáng tạo sẽ bị kìm hãm. Chính vì vậy, Việt Nam cần tìm ra điểm cân bằng hợp lý để đổi mới được khuyến khích, nhưng vẫn trong khuôn khổ của trách nhiệm và chuẩn mực xã hội.”- PGS.TS Nguyễn Đức Minh nhấn mạnh
Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Nguyễn Đức Minh tin tưởng, thông qua những trao đổi chuyên sâu, hội thảo sẽ cùng nhau tìm ra những định hướng chính sách thực tiễn, góp phần định hình chính sách tốt hơn cho chuyển đổi số tại Việt Nam, tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và thúc đẩy một hệ sinh thái số an toàn, góp phần đưa Việt Nam tiến nhanh hơn trên con đường phát triển kinh tế số an toàn, sáng tạo và bền vững nhân văn, lấy người dân làm trung tâm.
TS. Nguyễn Tiến Đức (Viện Nhà nước và Pháp luật) trình bày tham luận
Tham luận đầu tiên có chủ đề “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực kỹ thuật số: Đạo luật Thẩm định chuỗi cung ứng của Đức và ý nghĩa đối với Việt Nam” do TS. Nguyễn Tiến Đức (Viện Nhà nước và Pháp luật) trình bày. Tác giả cho biết, Đạo luật Thẩm định chuỗi cung ứng của Đức cho thấy các công ty lớn phải chịu trách nhiệm về các vi phạm quyền con người và tiêu chuẩn môi trường trong toàn bộ chuỗi cung ứng toàn cầu của họ. Điều này tạo ra tác động gián tiếp nhưng mạnh mẽ đến các nhà cung cấp Việt Nam, đòi hỏi họ phải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị khắt khe hơn. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tiếp theo, TS. Nguyễn Thị Phương Châm (Khoa Luật tư, Đại học Quốc gia Hà Nội) trình bày báo cáo chia sẻ về việc tăng cường khuôn khổ pháp lý của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu và trách nhiệm xã hội: Định hướng chính sách từ kinh nghiệm Nhật Bản. Tiến sĩ nhấn mạnh, chính sách tăng cường khuôn khổ pháp lý về bảo vệ dữ liệu và trách nhiệm xã hội là một chiến lược toàn diện, được thúc đẩy nhằm cân bằng giữa việc bảo vệ quyền lợi cá nhân, đảm bảo an ninh dữ liệu và khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu và trí tuệ nhân tạo để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các thách thức xã hội.
TS. Nguyễn Thị Phương Châm chia sẻ kinh nghiệm về chính sách bảo vệ dự liệu và trách nhiệm xã hội của Nhật Bản
Trên cơ sở phân tích kinh nghiệm của Nhật Bản, TS. Nguyễn Thị Phương Châm đề xuất một số thiết chế cần được bổ sung khi hoàn thiện pháp luật như: Thống nhất lại cấu trúc pháp luật để tránh chồng chéo, mâu thuẫn, tuân thủ theo đúng thứ bậc các văn bản pháp quy; Xác định mục tiêu, phương hướng, kim chỉ nam chủ đạo của chính sách Việt Nam trong bảo vệ dữ liệu cá nhân và động lực phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, thúc đẩy kinh tế số; Thiết lập một cơ chế trong đó một tổ chức như Ủy ban bảo vệ dữ liệu cá nhân có thẩm quyền và trách nhiệm giám sát việc xử lý thông tin cá nhân ở cấp độ trung ương…
Tại hội thảo, TS. Chu Thị Hoa (Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp) đã phân tích mô hình “cơ chế thử nghiệm có kiểm soát” (sandbox) pháp lý của Đức với cốt lõi là "thử nghiệm có trách nhiệm". TS. Chu Thị Hoa cho rằng, thay vì cách tiếp cận cục bộ, Việt Nam cần một luật khung chung để tạo ra một quy trình nhất quán, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trên diện rộng mà vẫn bảo đảm bảo vệ người dùng. Cách tiếp cận của Việt Nam hiện nay dường như đang bỏ lỡ một nửa giá trị cốt lõi của cơ chế sandbox. Việc xem sandbox chỉ đơn thuần là một "giấy phép tạm thời" cho một ngành cụ thể (như Fintech) có nguy cơ dẫn đến tình trạng manh mún, thiếu hệ thống. Mỗi khi một công nghệ hay mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực khác (như y tế số, năng lượng thông minh, EdTech) xuất hiện, các nhà quản lý lại phải bắt đầu một quy trình xây dựng sandbox riêng từ đầu. Điều này không tạo ra một cơ chế học hỏi và thích ứng pháp lý mang tính hệ thống.
Do đó, TS. Chu Thị Hoa nhấn mạnh, đổi mới sáng tạo trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật là yếu tố then chốt để chính sách, pháp luật theo kịp và dẫn dắt sự phát triển của công nghệ số. Trong đó, cần chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo và đồng hành; cải tiến quy trình xây dựng chính sách, pháp luật theo hướng linh hoạt, phản ứng nhanh; phát huy vai trò của công nghệ số trong quản trị nhà nước và xây dựng pháp luật; nâng cao năng lực thể chế và nguồn nhân lực phục vụ công tác xây dựng và thực thi pháp luật về công nghệ số.
Sau đó, hội thảo tiếp tục diễn ra phiên buổi chiều. Các đại biểu đã lắng nghe các chuyên gia CHLB Đức trao đổi về: (i) Cân bằng thể chế giữa đổi mới và tính bền vững: Bài học từ chiến lược số của Đức (ông Konrad Greilich); (ii) Khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong nền kinh tế số ở CHLB Đức: Từ kinh nghiệm đến thực tiễn áp dụng (ông Tobias Oelsner).
Ông Konrad Greilich cho rằng, chúng ta đang ở kỷ nguyên của tiền kỹ thuật số. Liên minh Châu Âu là khu vực đầu tiên ban hành khung quy định toàn diện cho tài sản số và stablecoin. Trong đó, stablecoin là tài sản số được xây dựng dựa trên công nghệ sổ cái phân tán (DLT/Blockchain), được neo giá theo các đồng tiền pháp định (như USD hoặc Euro), với hai loại tập trung so với phi tập trung. Nếu hợp đồng thông minh (smart contracts) được ví như “máy bán hàng tự động” của Internet thì stablecoin sẽ là “nhiên liệu” và “bánh lái” thúc đẩy và định hướng nền kinh tế số. Nhìn chung, châu Âu thừa nhận sự tồn tại của tiền tệ kỹ thuật số và nền kinh tế số, cùng với đó tạo ra môi trường pháp lý giúp các ưu thế của công nghệ được phát huy.
Ông Tobias Oelsner trình bày tham luận quan hình thức trực tuyến
Trong tham luận của mình, mở đầu ông Tobias Oelsner giới thiệu các nguyên tắc cốt lõi của GDPR, Quy định bảo vệ dữ liệu chung của Liên minh châu Âu (EU) và thực tiễn triển khai ở cấp quốc gia tại Đức. GDPR là quy định của luật EU về bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư cho tất cả các cá nhân trong EU và khu vực kinh tế châu Âu. Bảo vệ dữ liệu là một phần của trách nhiệm số của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp xử lý dữ liệu minh bạch sẽ xây dựng được niềm tin và lòng trung thành của khách hàng. Bảo vệ dữ liệu giúp giảm rủi ro bị lạm dụng và rò rỉ thông tin; thúc đẩy các nền tảng đáng tin cậy thiết yếu cho các thị trường số. Xã hội ngày càng xem bảo vệ dữ liệu là một chuẩn mực đạo đức, chứ không chỉ là nghĩa vụ pháp lý. Phát biểu kết luận báo cáo, ông Tobias Oelsner cho rằng, việc bảo vệ dữ liệu và tăng trưởng số cần được triển khai song hành. GDPR xây dựng niềm tin và khả năng chống chịu thông qua cơ chế trách nhiệm giải trình. Đối với Việt Nam, việc bảo vệ dữ liệu nên trở thành động lực phát triển chứ không phải là rào cản.
Tham luận cuối tại hội thảo do ThS. Nguyễn Thu Dung (Viện Nhà nước và Pháp luật) trình bày có chủ đề “Chia sẻ dữ liệu Nhà nước – Doanh nghiệp trong kinh tế số: Mô hình quản trị dựa trên nguyên tắc cho Việt Nam, tham chiếu từ kinh nghiệm quốc tế”. Quản trị dựa trên nguyên tắc là một triết lý quản lý và điều tiết tập trung vào tinh thần của luật pháp và các giá trị cốt lõi, thay vì chỉ dựa vào các quy tắc chi tiết, cứng nhắc. Hệ thống quản trị theo nguyên tắc không quy định cứng nhắc “phải làm gì” hoặc “làm như thế nào”, mà đặt trọng tâm vào việc duy trì và hiện thực hóa các giá trị cốt lõi của quản trị tốt.
Toàn thể đại biểu tham dự hội thảo chụp ảnh kỷ niệm, bà Vanessa Steinmetz trực tiếp có mặt trên màn hình
Trong bối cảnh chia sẻ dữ liệu Nhà nước - Doanh nghiệp trong kinh tế số, nơi công nghệ thay đổi chóng mặt và các mô hình kinh doanh mới liên tục xuất hiện, thì việc lựa chọn mô hình quản trị dựa trên nguyên tắc là tối ưu hơn, bất chấp chi phí tuân thủ cao trong ngắn hạn. Bởi lẽ tính không thể dự liệu, linh hoạt và giảm thiểu chi phí tuân thủ trong dài hạn. Không một nhà làm luật nào có thể dự liệu hết tất cả các hình thức chia sẻ dữ liệu, các công nghệ xử lý mới (như AI, Blockchain) và các rủi ro bảo mật trong tương lai. Một bộ quy tắc cứng nhắc sẽ nhanh chóng trở nên lỗi thời và kìm hãm sáng tạo.
Hội thảo cũng nhận được nhiều trao đổi từ các chuyên gia Đức và Việt Nam. Các cuộc thảo luận sôi nổi và xoay quanh chủ đề về kinh nghiệm của hai nước trong việc xây dựng khung pháp lý phát triển kinh tế số để vừa đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Phát biểu kết thúc hội thảo, TS. Phạm Thị Thúy Nga cho biết, Ban Tổ chức hội thảo sẽ viết báo cáo kiến nghị gửi Viện Hàn lâm và các cơ quan trung ương trong đó có nội dung về kinh nghiệm của Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc. Những vấn đề trao đổi tại hội thảo sẽ gợi mở cho Viện lựa chọn làm nội dung nghiên cứu cho các đề tài sắp tới. TS. Phạm Thị Thúy Nga gửi lời cám ơn đến Viện FNF, các cơ quan ban ngành và toàn thể các đại biểu đã đến dự và trao đổi, thảo luận tại hội thảo.