Tập trung xây dựng thể chế để phát triển bền vững vùng Nam Bộ

17:00 28/10/2024
0:00
/
0:00
Cỡ chữ: A- | A+
Độ tương phản: - | +
Ngày 29/10/2024, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Khoa học xã hội Vùng nam Bộ thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Thể chế phát triển bền vững trong liên kết vùng Nam Bộ và lân cận”, với sự tham dự của đông đảo các nhà quản lý, nhà khoa học tại các viện nghiên cứu, trường đại học trong vùng.

PGS.TS. Vũ Tuấn Hưng, Phó viện trưởng phụ trách Viện Khoa học xã hội Vùng Nam Bộ và TS. Trần Văn Khuyên, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM chủ trì Hội thảo

Vùng Nam Bộ bao gồm Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ với 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là vùng có vị trí địa kinh tế, địa chính trị, quốc phòng và an ninh quan trọng của Việt Nam. Vùng có 2 thành phố trực thuộc trung ương, trong đó TPHCM là thành phố lớn nhất cả nước, là trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội, tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo của vùng và cả nước.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với tổng diện tích khoảng 40,6 nghìn km2, chiếm 13% diện tích tự nhiên cả nước; trong đó có khoảng 1,5 triệu ha đất trồng lúa mầu mỡ bậc nhất ở nước ta và trên thế giới; dân số vùng khoảng 17,5 triệu người, chiếm gần 18% dân số cả nước.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu nhất ở Đông Nam Á và thế giới. Là vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm, thuỷ hải sản và trái cây lớn nhất của cả nước; đóng góp khoảng 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, gần 65% sản lượng thủy sản nuôi trồng, 60% lượng cá xuất khẩu và gần 70% các loại trái cây của cả nước.

Vùng Đông Nam Bộ có khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, năng động với số lượng doanh nghiệp đứng đầu cả nước. Là địa bàn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất, chiếm 41,1% tổng vốn FDI. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh, tỉ trọng khu vực dịch vụ tăng cao; tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt mức cao nhất cả nước.

Mặc dù đóng góp GDP lớn nhất so với các vùng khác trong cả nước song vùng Nam Bộ vẫn được đánh giá là phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh sẵn của vùng.

PGS.TS. Vũ Tuấn Hưng, phát biểu khai mạc Hội thảo

Phát biểu khai mạc tại hội thảo, PGS.TS. Vũ Tuấn Hưng, Bí thư Đảng ủy, Phó viện trưởng phụ trách Viện Khoa học xã hội Vùng Nam Bộ cho biết, tốc độ tăng trưởng GRDP cả vùng Đông Nam Bộ năm 2023 ước đạt 5,06% so với mức tăng 5,05% của cả nước. Quy mô GRDP của vùng đóng góp vào GDP cả nước lớn nhất (chiếm 30,2% GDP), GRDP bình quân đầu người đạt 166 triệu đồng. Thu ngân sách nhà nước 675 nghìn tỷ đồng, thu hút đầu tư nước ngoài có 4/6 địa phương trong Vùng thuộc nhóm dẫn đầu cả nước, cơ cấu kinh tế GRDP của vùng chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ.

PGS.TS. Vũ Tuấn Hưng nhấn mạnh, mặc dù đóng góp GDP lớn nhất so với các vùng khác trong cả nước song vùng Nam Bộ vẫn được đánh giá là phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh sẵn có của vùng. Trong giai đoạn mới, với xu thế hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, mở ra nhiều cơ hội, thách thức cho vùng đầu tàu kinh tế của Việt Nam trong phát triển nhanh và bền vững.

Đề cập đến liên kết vùng và liên kết trong phát triển bền vững, PGS.TS. Vũ Tuấn Hưng cho rằng, cùng với sự phát triển, hàng loạt vấn đề mới nổi lên mà một địa phương riêng lẻ không thể tự giải quyết được hoặc tự giải quyết không hiệu quả như giao thông liên vùng, ứng phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh nguồn nước, ô nhiễm môi trường, tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chủ động đón đầu cách mạng công nghiệp 4.0…

PGS.TS. Vũ Tuấn Hưng đề xuất, trụ cột có tính quan trọng và kích hoạt cho sự phát triển vượt bậc, để khơi thông mọi nguồn lực, tiềm năng của vùng Nam Bộ đó chính là trụ cột thể chế. Ngoài những trụ cột bao gồm cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và các nguồn lực khác (Công nghệ, tài chính, văn hóa, xã hội,…). Nếu “khơi thông ” được trụ cột “động mạch chủ: thể chế” sẽ giúp kích hoạt, khơi thông toàn bộ “cục máu đông” của toàn bộ nền kinh tế và xã hội, từ đó sẽ lan tỏa và khơi thông các yếu tố trụ cột quan trọng cho sự phát triển bền vững của quốc gia, vùng, và từng địa phương như: Cơ sở hạ tầng, nguồn lực công nghệ, nguồn lực tài chính, nguồn lực văn hóa, nguồn lực xã hội khác,…

Quang cảnh Hội thảo

Tại hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học tập trung thảo luận các nội dung chính: Các vấn đề lý luận, căn cứ pháp lý và thực tiễn về thể chế phát triển bền vững trong liên kết vùng và những vấn đề đặt ra cho vùng Nam Bộ và lân cận hiện nay. Hội thảo nhằm đánh giá thực trạng, nhận diện các vấn đề tồn tại của thể chế, đặt ra cho phát triển bền vững trong liên kết vùng Vùng Nam Bộ và lân cận hiện nay. Phân tích các nguyên nhân, yếu tố tác động phát triển vùng Nam Bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế sáng tạo trong giai đoạn mới. Qua đó nhằm đề xuất giải pháp, khuyến nghị chính sách, dự báo xu hướng để hoàn thiện thể chế phát triển bền vững trong liên kết vùng đặt ra cho Vùng Nam Bộ và lân cận.

Bàn luận về thể chế phát triển bền vững trong liên kết vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Thạc sĩ Phạm Quỳnh Lan, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ cho biết, việc xây dựng một thể chế vững mạnh giúp định hình các chính sách hợp lý, tạo ra cơ chế giám sát và quản lý hiệu quả và khuyến khích sự tham gia của tất cả các bên liên quan. Điều này đặc biệt quan trọng trong các khu vực có sự đa dạng về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội như Đồng bằng sông Cửu Long. Việc xây dựng thể chế phát triển bền vững trong liên kết vùng Đồng bằng sông Cửu Long là cần thiết để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, gắn với bảo vệ môi trường, và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Trong khi đó, Thạc sĩ Nguyễn Văn Quang, Trung tâm Nghiên cứu kinh tế Miền Nam, Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư khuyến nghị cần tiếp tục hoàn thiện thể chế liên kết vùng Đông Nam Bộ. Theo đó, vùng cần đổi mới tư duy trong quá trình xây dựng thể chế liên kết vùng; cần thay đổi mạnh mẽ tư duy “nhiệm kỳ”, “giới hạn theo địa giới hành chính” và cơ cấu kinh tế “khép kín”… Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện những chính sách thúc đẩy liên kết vùng; tăng cường hiệu lực thực thi các quy định về liên kết vùng; tăng cường cơ chế theo dõi, đánh giá, giám sát… trong liên kết vùng.

Các đại biểu tham dự Hội thảo chụp ảnh lưu niệm

 

PV (Tổng hợp)

In trang Chia sẻ

Tin khác