Viện Dân tộc học
  • VASS-70 năm (1953-2023)

Viện Dân tộc học

30/03/2023

I. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA VIỆN

Từ tổ Dân tộc học trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), Viện Dân tộc học chính thức được thành lập theo Nghị định số 59/CP ngày 14 tháng 5 năm 1968 của Hội đồng Chính phủ, và được khẳng định lại tại Nghị định số 109/2012/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 2012 của Chính phủ. Viện có tên giao dịch quốc tế là Institute of Anthropology.

Theo Quyết định số 244/ QĐ-KHXH ngày 27 tháng 02 năm 2013 của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc có các chức năng và nhiệm vụ chính như sau:

Chức năng: Nghiên cứu cơ bản, toàn diện, kết hợp với nghiên cứu ứng dụng và dự báo về các vấn đề dân tộc ở Việt Nam và thế giới, nhằm cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định và thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; tham gia tư vấn khoa học và đào tạo đại học, sau đại học về Dân tộc học/ Nhân học.

Nhiệm vụ: 1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến Dân tộc học/ Nhân học ở Việt Nam và trên thế giới. 2. Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phát triển về các tộc người và nhóm xã hội, bao gồm những vấn đề: Nguồn gốc, lịch sử, dân số, ngôn ngữ, kinh tế, quá trình tộc người và quan hệ tộc người, cấu trúc và phân tầng xã hội, giao lưu và bản sắc văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, tri thức dân gian, giáo dục, y tế, môi trường, đô thị hóa, tác động của toàn cầu hóa, xóa đói giảm nghèo, phát triển bền vững, chính sách và việc thực hiện chính sách dân tộc, mối quan hệ giữa tộc người và quốc gia, dân tộc. 3. Kết hợp nghiên cứu với đào tạo đội ngũ chuyên gia về Dân tộc học/ Nhân học cho Viện và cho ngành; tham gia đào tạo đại học và sau đại học, góp phần phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các tổ chức khác ở trong và ngoài nước. 4. Thẩm định khoa học các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở các bộ, ngành, địa phương theo sự phân công của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 5. Thực hiện các tư vấn khoa học và phản biện xã hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện. 6. Hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định hiện hành. 7. Trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật; quản lý tư liệu, thư viện của Viện; xuất bản các ấn phẩm khoa học; phổ biến kết quả nghiên cứu và truyền bá kiến thức khoa học.

Trong chặng đường 45 năm xây dựng và phát triển, tập thể cán bộ, công chức Viện Dân tộc học đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, xứng đáng là Viện nghiên cứu chuyên ngành của cả nước. Những thành tựu to lớn và đáng tự hào về nghiên cứu khoa học và về các lĩnh vực khác của Viện đã được Nhà nước ghi nhận bằng việc trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba nhân dịp kỷ niệm 15 năm thành lập Viện (1983), Huân chương Lao động hạng Nhất nhân dịp Viện tròn 30 tuổi (1998) và Huân chương Độc lập hạng Ba nhân dịp kỷ niệm 35 năm thành lập Viện (2003).

II. NHỮNG THÀNH TỰU KHOA HỌC

     1. Giai đoạn Kháng chiến chống Mỹ (1968 - 1975)

Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cũng là giai đoạn thành lập (5-1968) và bước đầu phát triển của Viện. Khi mới thành lập vào năm 1968, Viện chỉ có 20 cán bộ công chức. Với đặc thù của ngành, cán bộ của Viện phải thường xuyên đi điền dã tại các vùng dân tộc và miền núi. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu có được từ khi còn là Tổ Dân tộc thuộc Viện Sử học và sau đó trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện đã triển khai nhiều hoạt động khoa học khác nhau, trọng tâm và nổi bật trong đó là Điều tra, nghiên cứu để xác định thành phần các dân tộc ở Việt Nam, Nghiên cứu cơ bản về các dân tộc và văn hóa dân tộc.

a. Điều tra, nghiên cứu để xác định thành phần các dân tộc ở Việt Nam

Đây là nhiệm vụ khoa học quan trọng hàng đầu của Viện trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Do đặc thù đất nước tạm bị chia cắt, công việc xác định thành phần các dân tộc ở miền Bắc được triển khai ngay sau khi Viện được thành lập tháng 5-1968 và đến năm 1975, và sau ngày thống nhất đất nước được tiến hành ở các tỉnh miền Nam và kết thúc vào năm 1979.

Trước 1968, công tác xác định thành phần dân tộc Việt Nam đã được các học giả trong và ngoài nước quan tâm và nghiên cứu. Mặc dù vậy, tại thời điểm này, vẫn chưa có được danh mục dân tộc hoàn chỉnh và thống nhất. Tình hình đó đặt ra cho ngành dân tộc học, trực tiếp là Viện Dân tộc học nhiệm vụ điều tra, nghiên cứu để xác định trên đất nước ta có bao nhiêu dân tộc, nhóm địa phương, nhóm ngôn ngữ; làm rõ vấn đề tộc danh, đâu là tên tự gọi, đâu là tên do các dân tộc khác đặt cho…, để Đảng và Nhà nước có căn cứ xây dựng chính sách dân tộc đúng đắn và phù hợp cho từng đối tượng.

Công việc quan trọng đầu tiên là thống nhất các tiêu chí xác định thành phần dân tộc. Trên cơ sở các cuộc điều tra, xác định thử, nhiều bài viết liên quan đã được công bố. Một số cuộc tọa đàm chuyên đề đã được tổ chức. Theo đó, ba tiêu chí dùng trong xác định thành phần dân tộc là: Ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa và ý thức tự giác tộc người. Cùng với việc xác định tiêu chí là xác định nội hàm và các nguyên tắc áp dụng trong tiêu chí xác định thành phần dân tộc.

Vận dụng ba tiêu chí trên, trong những năm sau đó, các đoàn cán bộ nghiên cứu của Viện đã đến nhiều tỉnh, nhiều vùng dân tộc trong cả nước để tiến hành việc điều tra, khảo sát, nghiên cứu. Trên cơ sở đó, nhiều cuộc tọa đàm để thảo luận và lấy ý kiến cán bộ và  đại diện người dân về thành phần và tên gọi các dân tộc, nhóm dân tộc tại các địa phương đã được tổ chức. Đến năm 1978, việc điều tra nghiên cứu để xác định thành phần dân tộc ở nước ta đã hoàn thành tốt đẹp. Một bảng Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam gồm 54 dân tộc, trong đó, 53 dân tộc thiểu số do Viện xây dựng được khẳng định, được Nhà nước công nhận và được Tổng cục Thống kê chính thức công bố vào ngày 2 tháng 3 năm 1979. Đây là thành công lớn của ngành Dân tộc học Việt Nam, được giới khoa học trong nước và quốc tế hoan nghênh và đánh giá cao. Bảng Danh mục đã không chỉ khẳng định đúng đắn và còn đầy đủ tên gọi chính thức, số lượng các dân tộc, các nhóm địa phương, các ngữ hệ và nhóm ngôn ngữ, địa bàn cư trú, mà còn qua đó, xác lập quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc, đồng thời, xóa bỏ những tên gọi mang tính chất miệt thị, chia rẽ dân tộc do chế độ phong kiến, chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới áp đặt cho các dân tộc. Bảng Danh mục cũng là minh chứng của quyền cùng làm chủ đất nước của đại gia đình dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, bảng Danh mục thành phần dân tộc ở Việt Nam đã được sử dụng và phục vụ đắc lực cho bốn cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc vào các năm 1979, 1989, 1999 và 2009.

  b. Nghiên cứu cơ bản các dân tộc và văn hóa tộc người

Nghiên cứu cơ bản các dân tộc và văn hóa các dân tộc được coi là hoạt động chuyên môn thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại của Viện cho đến nay. Trước năm 1975, do đặc điểm đất nước bị chia cắt, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các dân tộc thiểu số miền núi miền Bắc. Bên cạnh hàng loạt các bài nghiên cứu tổng quan hay từng mặt về từng dân tộc đăng trên tạp chí chuyên ngành và các tạp chí khoa học xã hội khác, nhiều sách chuyên khảo giản chí về các vùng dân tộc, các nhóm dân tộc hay từng dân tộc do cán bộ trong Viện biên soạn đã được công bố. Tiêu biểu trong số đó là các cuốn Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (1968), Người Dao ở Việt Nam (1971), Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam (1972), Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (1975)… Nội dung của các công trình nghiên cứu cơ bản thường tập trung vào việc giới thiệu bức tranh chung về các dân tộc, các nhóm dân tộc. Các bài nghiên cứu, các sách nói trên, ở những mức độ khác nhau đã giới thiệu toàn diện và làm sáng tỏ đặc điểm của các dân tộc, tạo điều kiện để các dân tộc trong cả nước hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau, qua đó, góp phần vào việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Đây cũng là vốn tài liệu quý giá chuẩn bị cho việc biên soạn hai bộ sách giới thiệu về các dân tộc ở Việt Nam của Viện trong những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX.

       2. Giai đoạn trước Đổi mới (1976 - 1986)

Từ sau 1975 đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, với việc đất nước hoàn toàn thống nhất, hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện Dân tộc học chuyển sang trang mới. Lực lượng nghiên cứu và cơ cấu tổ chức nghiên cứu từng bước được củng cố và tăng cường. Số lượng cán bộ công chức trong Viện tăng dần từ 41 người vào năm 1978 lên 53 người - năm 1983. Bên cạnh Tổ Miền núi miền Bắc và Tổ Việt - Mường, hai tổ nghiên cứu mới được thành lập là Tổ Bình - Trị - Thiên và Tổ Văn nghệ Dân gian. Năm 1979, các tổ nghiên cứu được sắp xếp lại và đổi thành các phòng nghiên cứu, bao gồm Phòng Miền núi miền Bắc, Phòng Người Việt, Phòng Trường Sơn - Tây Nguyên, Phòng Xã hội học - Tộc người và Phòng Kỹ thuật - Hiện vật. Năm 1983, thành lập thêm Phòng Địa lý và Bản đồ tộc người, sau đó là Phòng Các dân tộc nước ngoài. Hai thành tựu khoa học nổi bật và đáng ghi nhận của Viện trong giai đoạn này là:

  a. Tiếp tục nghiên cứu cơ bản về các dân tộc và văn hóa tộc người

Viện đã tổ chức nhiều đợt điều tra, khảo sát theo hướng nghiên cứu toàn diện, từ cội nguồn lịch sử, động thái dân số, các hoạt động kinh tế truyền thống, loại hình tổ chức và thiết chế xã hội, phong tục tập quán, luật tục và hương ước, dạng thức văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần bao gồm đồ ăn, thức uống, trang phục, nhà cửa, công cụ sản xuất, đồ gia dụng, phương tiện vận chuyển, văn hóa, văn nghệ dân gian, trò chơi dân gian, lễ hội, tôn giáo và tín ngưỡng, đến tri thức địa phương về sử dụng nguồn tài nguyên, y học dân tộc và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, về ứng xử giữa con người với nhau và giữa con người với môi trường tự nhiên, cùng với đó là những biến đổi và thích nghi trước tác động của điều kiện mới.

Kết quả của quá trình nghiên cứu cơ bản theo hướng toàn diện trên là hàng loạt công trình giới thiệu về các dân tộc và văn hóa tộc người của một vùng dân tộc hay một dân tộc được xuất bản, trong đó, đáng chú ý là các công trình: Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái (1977); Góp phần nghiên cứu bản lĩnh, bản sắc các dân tộc ở Việt Nam (1980); Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam (1978); Các dân tộc tỉnh Gia Lai - Công Tum (1981); Đại cương về các dân tộc Ê đê, Mnông ở Đăk Lắk (1982); Người Sán Dìu ở Việt Nam (1983); Văn hóa nếp sống của người Hà Nhì, Lô Lô (1985); Nhà cửa các dân tộc Trung du Bắc Bộ Việt Nam (1980); Lệ làng, phép nước (1985),… Đáng chú ý hơn cả là, trên cơ sở các công trình sách và tạp chí về dân tộc trước và trong giai đoạn này, kết hợp với việc tiếp tục điều tra, khảo sát những dân tộc còn lại, Viện Dân tộc học đã hợp tác với một số nhà nghiên cứu bên ngoài lần lượt chủ trì biên soạn và cho ra đời bộ sách giới thiệu về 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam, bao gồm hai tập, mang tựa đề Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) (1978) và Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) (1984). Với hai tập sách mang tựa đề trên, có thể nói lần đầu tiên ở Việt Nam có một bộ “Bách khoa thư” tương đối đầy đủ và toàn diện về tất cả các dân tộc thiểu số.

b. Nghiên cứu kinh tế - xã hội phục vụ công cuộc phát triển của đất nước

Đây là hướng nghiên cứu mới so với giai đoạn trước. Theo đó, bên cạnh những nghiên cứu cơ bản, đã xuất hiện các công trình nghiên cứu ứng dụng về những vấn đề kinh tế, xã hội các vùng lãnh thổ để trực tiếp phục vụ cho công cuộc phát triển trong thời kỳ 10 năm đầu cả nước thống nhất ở vùng miền núi và dân tộc. Trong quá trình triển khai các hoạt động nghiên cứu này, đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa Viện với các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Phương pháp nghiên cứu cũng có sự chuyển đổi: từ nghiên cứu dân tộc học thuần túy sang nghiên cứu liên ngành, đa ngành giữa dân tộc học với nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế, văn hóa,…

Thành tựu khoa học nổi bật trên lĩnh vực này trước hết phải kể đến đóng góp của tập thể cán bộ Viện trong việc chủ trì thành công hai đề tài cấp Nhà nước: Xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện chính sách đối với các dân tộc thiểu số và phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi nước ta (KX.04.11); Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển đất nước (KX.06.05). Cũng trong thời kỳ này, Viện đã tham gia tích cực nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội cấp Nhà nước quan trọng như: Chương trình Tây Nguyên I; Chương trình Tây nguyên II; Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc… Một số công trình tiêu biểu phản ánh kết quả nghiên cứu theo hướng này đã được xuất bản là: Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc (1987); Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây Nguyên (1986); Tây Nguyên trên đường phát triển (1989); Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Đăk Lắk (1990),…

Thông qua các đề tài và chương trình đã nêu, Viện có những đóng góp quan trọng trong việc nhận diện và đánh giá trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân tộc tại hai địa bàn chiến lược là miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, Viện đã đề xuất những luận cứ khoa học phục vụ cho việc hoạch định và cụ thể hóa các chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến địa bàn dân tộc và miền núi, phù hợp với đặc điểm từng vùng và từng dân tộc. Nhiều đề xuất khoa học đã được ứng dụng vào thực tiễn, được thực tiễn chứng minh là đúng đắn.

       3. Giai đoạn từ Đổi mới đến nay (1987 - 2013)

Từ những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ trước trở lại đây, do tác động của đường lối Đổi mới và chính sách mở cửa, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các dân tộc thiểu số nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới để phát triển và hội nhập. Trong bối cảnh đó, hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện Dân tộc học được triển khai theo tinh thần Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng về dân tộc miền núi, Nghị quyết 5 (Khóa VIII) của Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết 7 (Khóa IX) của Trung ương Đảng về công tác dân tộc và tôn giáo... Theo đó, định hướng nghiên cứu khoa học chủ đạo của Viện trong giai đoạn này là nghiên cứu cơ bản về dân tộc và văn hóa dân tộc, trong đó chú trọng đi sâu nghiên cứu văn hóa và văn hóa dân tộc; kết hợp nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu phát triển để phục vụ thực tiễn xây dựng và phát triển bền vững vùng miền núi và dân tộc trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu khoa học trong thời kỳ Đổi mới, Viện đã có những thay đổi và phát triển về cơ cấu tổ chức và lực lượng nghiên cứu. Từ những năm đầu thập niên 90 đến năm 2013, Viện đã 3 lần sắp xếp lại về cơ cấu tổ chức. Hiện nay, Viện có 14 phòng/ trung tâm. Ngoài 4 phòng chức năng, các phòng/ trung tâm còn lại được tổ chức nghiên cứu theo tộc người và theo vấn đề. Bên cạnh 5 phòng nghiên cứu theo tộc người, bao quát được cả 54 dân tộc ở Việt Nam, có 5 phòng nghiên cứu theo vấn đề, đó là về lý luận và chính sách dân tộc, về Nhân học môi trường, Nhân học y tế và dân số, Nhân học tôn giáo, và về vấn đề phát triển cộng đồng. Cách tổ chức phòng/ trung tâm nghiên cứu như vậy vừa phản ánh hướng nghiên cứu truyền thống và chủ đạo của Viện Dân tộc học là nghiên cứu tộc người, song cũng thể hiện hướng nghiên cứu phát triển và sự hội nhập với Nhân học thế giới.             

  a. Nghiên cứu cơ bản về dân tộc và văn hóa tộc người

Xuất phát từ nhu cầu và hoàn cảnh mới của thực tiễn, việc nghiên cứu sâu về văn hóa và văn hóa tộc người được Viện chú trọng và đẩy mạnh. Từ giai đoạn Đổi mới đến nay, nhất là từ đầu thập niên 90, chịu tác động của tiến trình phát triển đang diễn ra ngày một rộng khắp và mạnh mẽ, văn hóa các dân tộc đã và đang biển đổi nhanh chóng. Vấn đề đặt ra là cần lưu giữ bằng ấn phẩm những yếu tố văn hóa đang còn chưa bị mai một, đồng thời tiến hành các nghiên cứu để cùng Nhà nước và người dân tìm ra sự lựa chọn thích hợp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc trong khung cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là lý do dẫn đến sự nở rộ của các công trình nghiên cứu về văn hóa và văn hóa tộc người của cán bộ trong Viện ở giai đoạn này, thể hiện ở một số lượng khá lớn công trình được xuất bản, bao gồm: Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề dân tộc (1991); Nhà rông của các dân tộc ở Tây Nguyên (1991); Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam (1992); Những biến đổi kinh tế - văn hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc (1993); Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia dân tộc (1993); Nhà ở cổ truyền các dân tộc ở Việt Nam (2 tập, 1994 và 1996); Buôn làng cổ truyền xứ Thượng (1994); Các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn (2003); Tập quán ăn uống của người Việt vùng Kinh Bắc (2004); Gia đình và hôn nhân người Mường ở Phú Thọ (2005); Tôn giáo tín ngưỡng của người Ve ở Việt Nam (2009); Phát triển bền vững văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc (2012)

Bên cạnh nghiên cứu sâu về văn hóa và văn hóa các dân tộc, Viện đã triển khai nghiên cứu các mặt khác của đời sống các dân tộc như hoạt động kinh tế, tổ chức và thiết chế xã hội, hôn nhân và gia đình, tôn giáo tín ngưỡng, dân số, môi trường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng,… Điều này có thể thấy rõ trước hết qua các công trình nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên ngành. Theo thống kê, trải qua 23 năm của Tạp chí Dân tộc học (1974 -1996), trong tổng số khoảng 1.000 bài viết, có trên 300 bài về văn hóa, trên 250 bài về các lĩnh vực chung, 120 bài về lĩnh vực kinh tế, 120 bài về thiết chế và tổ chức xã hội, hôn nhân, gia đình. Nếu thống kê từ năm 1980 (sau khi công bố bản Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam) đến năm 2012, có 2.062 bài nghiên cứu đăng trên Tạp chí Dân tộc học, với khoảng 1/3 số bài là của cán bộ Viện Dân tộc học.

Cùng với các công trình đăng trên tạp chí, hàng loạt sách viết về các mặt khác của đời sống các dân tộc cũng được xuất bản trong giai đoạn Đổi mới, với các lĩnh vực như môi trường, dân số, ý tế, giáo dục, các hoạt động sinh kế, xóa đói giảm nghèo, đô thị hóa…

Cùng với các nghiên cứu cơ bản trong hai giai đoạn trước, những kết quả nghiên cứu cơ bản trong giai đoạn Đổi mới đã giới thiệu kỹ hơn, đầy đủ và cụ thể hơn bức tranh văn hóa thống nhất trong đa dạng của các dân tộc Việt Nam, từ đó, góp phần vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc.

b. Kết hợp nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng nhằm phục vụ thực tiễn xây dựng và phát triển bền vững ở các tộc người

Do nhu cầu của thực tiễn trong nước, nghiên cứu phát triển của Viện trong giai đoạn Đổi mới được triển khai liên tục và đều đặn, với nhiều đối tác trong nước và ngoài nước, bao gồm hai lĩnh vực:

Thứ nhất, thực hiện các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi và dân tộc do Đảng và Nhà nước giao.

Thứ hai, trực tiếp triển khai hoặc tham gia cùng các đối tác trong và ngoài nước triển khai các đề tài, dự án nghiên cứu hay phát triển cộng đồng, nhằm một mặt, nâng cao năng lực phát triển cộng đồng cho cán bộ và người dân địa phương, mặt khác, góp phần lý giải những vấn đề của thực tiễn công cuộc phát triển bền vững ở vùng các dân tộc.

Thuộc về lĩnh vực thứ nhất, Viện đã huy động cán bộ thực hiện thành công trên 50 đề tài đề tài, dự án cấp Nhà nước, cấp Bộ và điều tra; và khoảng 200 đề tài cấp cơ sở (cấp Viện) về các vấn đề: xác định lại thành phần một số dân tộc, di dân, tái định cư, đất đai, môi trường, giáo dục, y tế, bản sắc văn hóa tộc người (tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán), chuyển đổi tôn giáo ở các dân tộc, tác động của văn hóa tộc người với phát triển, biến đổi kinh tế - xã hội, phát triển bền vững ở vùng biên giới…

Kết quả nghiên cứu của các đề tài, dự án, điều tra nói trên đã được công bố dưới dạng sách như: Dân số và dân số tộc người (1995); Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền núi phía Bắc (1996); Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ (1999); Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên (2000); Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI (2003); Ảnh hưởng của các yếu tố tộc người tới phát triển kinh tế - xã hội của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận (2007); Giữ “lý cũ” hay theo “lý mới” ?: Bản chất của những cách phản ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin Lành (2009); Một số vấn đề về chính sách giáo dục ở vùng cao miền núi Việt Nam (2012); Tri thức địa phương của người dân sống trong vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên (2012); Văn hóa các tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy điện Sơn La (2012)

Với việc triển khai các đề tài trên, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển bền vững vùng miền núi và dân tộc đã được giải quyết hoặc làm sáng tỏ. Có thể nêu một số dẫn chứng về kết quả nghiên cứu từ việc thực hiện những đề tài đã nêu:

Đề tài Di dân tự phát của các dân tộc thiểu số từ miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên đã đưa ra những phân tích và lý giải sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ về các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quá trình di dân, nguyên nhân di dân, đặc điểm di dân, thực trạng đời sống người dân, những tác động tích cực và tiêu cực của di dân trước đây cũng như hiện nay, trên cơ sở đó, đưa ra những khuyến nghị có giá trị khoa học và thực tiễn cao.

Những kết quả nghiên cứu về Kinh tế - xã hội các dân tộc vùng ngập thủy điện Sơn La đã làm sáng tỏ những đặc điểm kinh tế, xã hội của các dân tộc trong vùng ngập dự án tiền khả thi thủy điện Sơn La, qua đó, một  mặt, đưa ra những cảnh báo đáng chú ý về nguy cơ bất lợi có thể sẽ diễn ra của quá trình di dân tái định cư khỏi vùng lòng hồ thủy điện Sơn La, mặt khác, cung cấp những dữ liệu phục vụ cho việc xây dựng các phương án tái định cư.

Với việc thực hiện đề tài Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên, các nhà Dân tộc học đã đưa ra khuyến cáo rằng, ở Tây Nguyên từng tồn tại quyền làm chủ đối với đất rừng của các dân tộc tại chỗ và do điều này không được chú ý nên đã làm phát sinh những mâu thuẫn và bất cập xung quanh quá trình sử dụng và quản lý đất rừng giữa người dân tại chỗ với người dân mới đến, và nếu không có những giải pháp kịp thời thì hậu quả là khôn lường. Dự án cũng đề xuất những giải pháp hiện thực và thuyết phục nhằm vừa giải quyết những bức xúc và mất ổn định liên quan đến đất rừng trước mắt, vừa góp phần quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên đất rừng bền vững.

Trên cơ sở các cuộc điều tra nghiên cứu thực địa tại nhiều vùng dân tộc trong cả nước, Đề tài Những vấn đề cấp bách về dân tộc ở nước ta hiện nay đã chỉ ra và phân tích những mâu thuẫn đã và đang diễn ra ở các vùng dân tộc và miền núi như đất đai, tôn giáo, đói nghèo, cán bộ, giáo dục, y tế, di dân tự do, suy thoái môi trường, quan hệ dân tộc, từ đó, đưa ra những khuyến nghị để giải quyết vấn đề cấp bách đang diễn ra ở các vùng dân tộc và miền núi.

Dự án Điều tra, xác định lại thành phần một số dân tộc và nhóm dân tộc ở Việt Nam được triển khai trong những năm đầu của thế kỷ 21. Việc xây dựng bảng Danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam năm 1979 là thành tựu to lớn và đáng tự hào của ngành Dân tộc học Việt Nam, trực tiếp là của Viện Dân tộc học. Tuy vậy, thành phần dân tộc là sản phẩm của lịch sử. Vì thế, qua từng thời kỳ phát triển của đất nước, thành phần dân tộc cần được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện mới. Dưới ánh sáng của nhận thức và các nguồn tài liệu mới, một số nhà khoa học cho rằng cần xem xét lại tên gọi và thành phần dân tộc của một số dân tộc, nhóm tộc người. Bên cạnh đó, diễn ra tình trạng bản thân người dân thuộc một số dân tộc, nhóm dân tộc thiểu số hoặc muốn sửa đổi tộc danh, hoặc muốn tách ra thành một dân tộc độc lập. Theo thiết kế, dự án đã điều tra, xác định tên gọi của 6 dân tộc và 40 nhóm dân tộc cư trú trải dài từ bắc xuống nam của đất nước và đã nêu lên những kiến nghị có giá trị để các cơ quan có trách nhiệm lưu ý xem xét về vấn đề này.

Đề tài nghiên cứu Mối quan hệ dân tộc vùng biên giới Việt - Lào đã đặc biệt chú ý tới mối quan hệ dân tộc xuyên biên giới của các dân tộc Hmông, Thái, Khơ-mú… Nghiên cứu đã chỉ ra những đặc điểm văn hóa tộc người như quan hệ dòng họ, quan hệ hôn nhân, ngôn ngữ, phong tục tập quán của cư dân ở trong vùng có ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng tại nơi đây. Nghiên cứu còn đề xuất các kiến nghị và giải pháp liên quan đến xây dựng chính sách quản lý mối quan hệ dân tộc xuyên biên giới Việt - Lào và sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng này.

Sự chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin lành ở người Hmông là đề tài nghiên cứu đáp ứng việc tìm hiểu và giải quyết thực trạng nóng bỏng ở dân tộc Hmông trong hàng thập kỷ qua. Nghiên cứu đã có những lý giải về nguyên nhân của sự chuyển đổi dưới tác động của những biến đổi về kinh tế - xã hội và đặc biệt là tác động của các thế lực thù địch. Những kết quả nghiên cứu giúp cho cơ quan làm công tác dân tộc nhận diện rõ hơn thực trạng chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin Lành ở người Hmông, qua đó, có chính sách phù hợp với một bộ phận cư dân của tộc người này.

Dự án Nghiên cứu, bảo tồn văn hóa các dân tộc vùng lòng hồ và vùng tái định cư Nhà máy thủy điện Sơn La đã nghiên cứu tổng thể văn hóa của toàn bộ các cư dân thuộc đối tượng được điều tra. Cùng với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác như khảo cổ học, văn hóa học, nghiên cứu dưới góc độ Dân tộc học của Viện đã góp phần nhận diện thực trạng văn hóa tộc người của cư dân vùng lòng hồ và vùng tái định cư, từ đó đề xuất những phương án bảo tồn văn hóa của họ để vừa giữ gìn các di sản quý báu, vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Dự án Điều tra cơ bản các dân tộc vùng Tây Bắc đã điều tra tổng thể các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa ở nhiều tộc người tại vùng này. Qua thực hiện, Dự án đã góp phần tìm hiểu thực trạng đời sống kinh tế - xã hội của các tộc người trong vùng; đề xuất kiến nghị và giải pháp, đồng thời xây dựng nền tảng cho các vấn đề nghiên cứu mới trong tương lai.

Đề tài Phát triển bền vững về văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập vùng Đông Bắc đã nghiên cứu văn hóa của các tộc người ở vùng này trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở xây dựng tiêu chí của phát triển bền vững văn hóa tộc người, đề tài đã đánh giá mức độ bền vững văn hóa tộc người ở cấp cộng đồng (thôn/ bản). Từ đó, đề tài nêu lên nguy cơ từ đa dạng chuyển sang đơn dạng văn hóa tộc người ở trong vùng, khi kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết văn hóa của các cộng đồng đều bị xói mòn. Nghiên cứu cũng nêu lên một số giải pháp về sử dụng ngôn ngữ, về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong sự biến đổi, trong xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở.   

Chương trình nghiên cứu cấp bộ Những vấn đề cơ bản của các dân tộc ở Việt Nam được triển khai thành một số đề tài liên quan đến các vùng ở Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Thanh Nghệ, Tây Nguyên; ở dân tộc Chăm tại ven biển miền Trung; dân tộc Khơ-me ở Tây Nam Bộ. Tại mỗi vùng, các đề tài đã xác định được một số vấn đề cơ bản có tính đặc thù của vùng hoặc tộc người trong vùng. Qua đó, Chương trình đã nêu lên các vấn đề cơ bản ở các dân tộc của Việt Nam, như đói nghèo, tái định cư, đất đai, quan hệ dân tộc, chuyển đổi tôn giáo tín ngưỡng, văn hóa tộc người, đội ngũ cán bộ ở cơ sở, đồng thời đề xuất các kiến nghị, giải pháp liên quan.

Chương trình nghiên cứu cấp bộ Một số vấn đề cơ bản trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam dưới góc nhìn Dân tộc học đã được triển khai thành các đề tài, như về vấn đề chính sách dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, quan hệ dân tộc và tôn giáo, đội ngũ cán bộ cơ sở và vấn đề văn hóa ở vùng biên. Các nghiên cứu đã chỉ ra những đặc điểm tộc người trong vấn đề phát triển ở mỗi vùng biên giới; những cơ hội và thách thức đang đặt ra với phát triển của các tộc người ở vùng này, đặc biệt là quan hệ của vấn đề tộc người với an ninh, quốc phòng tại vùng biên. Nghiên cứu còn đề xuất những kiến nghị và giải pháp liên quan đến phát triển ở vùng biên giới dưới góc độ dân tộc học.             

Ý nghĩa, giá trị khoa học và thực tiễn của việc thực hiện các chương trình, dự án nói trên là hết sức to lớn, thể hiện ở chỗ, một số đề xuất khoa học đã được thực tiễn cuộc sống chứng minh là đúng đắn.

Thuộc về lĩnh vực thứ hai, bằng các phương pháp nghiên cứu ứng dụng, trọng tâm là phương pháp tham dự, Viện đã trực tiếp triển khai, hoặc tham gia cùng các đối tác thực hiện nhiều đề tài, dự án nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ của Viện, năng lực phát triển cộng đồng cho cán bộ và người dân địa phương, mặt khác, góp phần lý giải những vấn đề của thực tiễn công cuộc phát triển bền vững ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Trước hết là việc hợp tác với Khoa Nghiên cứu các dân tộc bản địa của trường Đại học Tổng hợp Trent - Canada để thực hiện Dự án Đào tạo cán bộ quản lý người dân tộc ở Sa Pa (Lào Cai)(1997-1999). Thông qua dự án này, bằng cách nghiên cứu và trực tiếp tổ chức các khóa đào tạo địa phương, các nhà Dân tộc học đã trang bị cho các học viên là cán bộ dân tộc thiểu số vốn hiểu biết về các giá trị văn hóa truyền thống, những kiến thức cần thiết về quản lý và phát triển cộng đồng, về nhu cầu và phương thức phát triển cộng đồng trong khung cảnh đổi mới và hội nhập.

Một số cán bộ của Viện đã tham gia tích cực vào Dự án hợp tác Việt Nam - Canada Giảm nghèo cho các địa phương Việt Nam: Nâng cao năng lực đánh giá chính sách và lập dự án (1999-2003) do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) là cơ  quan đồng chủ trì. Những cán bộ này đã tiến hành điều tra, khảo sát thực địa tại nhiều vùng dân tộc, góp phần nâng cao năng lực giảm nghèo vùng dân tộc cho giảng viên các trường đại học và cho cán bộ làm công tác giảm nghèo các địa phương.

Trong những năm 1999 - 2001, Viện đã cử một số cán bộ tham gia Chương trình Nghiên cứu lập kế hoạch xây dựng thủy điện quốc gia Việt Nam do SIDA (Thụy Điển) tài trợ, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) chủ trì, trong đó, trực tiếp thực hiện nội dung nghiên cứu Đánh giá các tác động kinh tế - xã hội của 21 dự án thủy điện tiền khả thi trên 05 lưu vực sông: Đà, Lô-Gâm, Cả, Sê San và Đồng Nai. Viện đã hợp tác với Trung tâm Khoa học xã hội Pháp thực hiện thành công Đề tài Làng Việt với những biến đổi của nó.

Trong nửa sau của thập niên 90, Viện đã cùng với Trung tâm Nghiên cứu vùng và phát triển bền vững của Trường Đại học Tổng hợp Chiềng Mai (Thái Lan) thực hiện Dự án Các cộng đồng thiểu số trong môi trường biến đổi do Quỹ Ford tài trợ, kết hợp với Trường Đại học Tổng hợp Goteborg của Thụy Điển thực hiện Dự án Nâng cao năng lực trong nghiên cứu Dân tộc học /Nhân học xã hội (trong khuôn khổ Chương trình Phát triển nông thôn miền núi Việt Nam - Thụy Điển),...

Từ năm 2002 đến năm 2005, Viện Dân tộc học phối hợp với Viện Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài Nguyên và Môi trường) đã hợp tác với Trường Đại học KU Leuven - Vương quốc Bỉ thực hiện Dự án Tăng cường sự hợp tác giữa các bên tham gia trong việc bảo tồn cảnh quan đá vôi ở vùng Pù Luông - Cúc Phương, phía Bắc Việt Nam. Vẫn trong khuôn khổ hoạt động hợp tác với các tổ chức và vấn đề nghiên cứu đã nêu, từ năm 2007 đến năm 2012, Viện Dân tộc học lại tiếp tục tham gia Dự án Nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển công viên địa chất ở một số vùng Đông Bắc Việt Nam.

Trong các năm từ 2004 đến 2007, được sự tài trợ của Quỹ Rockefeller, Viện đã thực hiện Dự án nghiên cứu về Cơ chế ứng phó với tình trạng thiếu lương thực của các dân tộc thiểu số tại vùng cao Việt Nam. Vẫn theo hướng nghiên cứu đó, từ 2005 đến 2008, Quỹ Rockefeller lại tài trợ cho Viện thực hiện Dự án hợp tác với Viện Nghiên cứu văn hóa của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về Cơ chế ứng phó với tình trạng thiếu lương thực của các dân tộc thiểu số tại vùng cao Việt Nam và Lào.

Hiện nay (2013), Viện đang hợp tác với Viện Nhân học xã hội thuộc Viện Max Planck của Cộng hòa liên bang Đức để nghiên cứu về Sự chuyển đổi của chợ trong xã hội Việt Nam đương đại. Trong đề tài này, Viện đã tiếp nhận 6 cán bộ và nghiên cứu sinh tiến sĩ của Viện Nhân học xã hội (Đức) sang nghiên cứu; đồng thời, Viện cũng cử một số cán bộ trẻ tham gia. Nghiên cứu đã góp phần nâng cao năng lực cho cán bộ trẻ của Viện Dân tộc học.

Bên cạnh thực hiện những dự án hợp tác với nước ngoài, Viện còn có nhiều đề tài, dự án hợp tác với các địa phương trong nước để triển khai nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phát triển dưới góc độ Dân tộc học/ Nhân học. Ngoài ra, Viện còn có đội ngũ các nhà khoa học làm tư vấn cho nhiều tổ chức quốc tế, như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Bộ phát triển quốc tế Anh (DFID), Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch (DANIA), Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA), Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV)… trong thực hiện các dự án nghiên cứu và phát triển ở nhiều địa phương của Việt Nam về các lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, lâm nghiệp cộng đồng, giao đất giao rừng, biến đổi khí hậu...         

Tóm lại, trong 45 năm xây dựng và phát triển, Viện Dân tộc học đã trải qua một chặng đường dài nghiên cứu, trưởng thành nhanh chóng với tư cách là cơ quan nghiên cứu chuyên ngành. Những thành tựu khoa học mà Viện Dân tộc học đã đạt được trong 45 năm qua rất phong phú, to lớn và đáng tự hào. Trong những thành tựu đó, có các thành tựu được coi là cơ bản và nổi bật như sau:

1. Triển khai việc điều tra, khảo sát và nghiên cứu để đưa ra được Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam năm 1979 gồm 54 dân tộc. Trong những thập niên qua, Bảng danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam đã góp phần đáng kể vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước nói chung, vào việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng nói riêng và vào các cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc. Bên cạnh đó, do biến động của thực tiễn và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, Viện đã tiến hành việc điều tra xác định lại thành phần một số dân tộc và nhóm dân tộc.

2. Triển khai các nghiên cứu cơ bản về dân tộc và văn hóa các dân tộc, qua đó, giới thiệu và làm rõ các đặc trưng kinh tế, xã hội, văn hóa, đặc biệt là giới thiệu và làm rõ các đặc trưng văn hóa của các dân tộc trong cả nước. Trên cơ sở đó, một mặt, giúp cho các dân tộc trong cả nước hiểu biết lẫn nhau, xích lại gần nhau, củng cố khối đoàn kết dân tộc, tăng cường lòng tự tôn dân tộc, phục vụ cho việc đề ra và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước qua từng thời kỳ, mặt khác, góp phần đắc lực vào việc thực hiện chủ trương bảo tồn và phát huy vốn văn hóa truyền thống của các dân tộc trong khung cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập.

3. Viện đã chủ trì thực hiện thành công hoặc tham gia có hiệu quả nhiều chương trình, dự án, đề tài về những vấn đề phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng miền núi và dân tộc, bao gồm các chương trình cấp Nhà nước, cấp bộ, dự án điều tra, các chương trình, dự án, đề tài hợp tác với các viện, các cơ quan trong nước và các đối tác ngoài nước. Qua đó, đưa ra được những thực trạng, cảnh báo, khuyến nghị và những đề xuất khách quan, khoa học làm cơ sở để Đảng, Nhà nước và các cơ quan quản lý xây dựng các chính sách, hoạch định các chương trình phát triển phù hợp với đặc điểm ở vùng này.

4. Những thành tựu khoa học nêu trên khẳng định Viện Dân tộc học với tư cách là cơ quan nghiên cứu chuyên ngành đã và đang hoàn thành tốt sứ mệnh mà Đảng, Nhà nước và xã hội giao phó, cũng chứng minh vai trò của Viện trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

III. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

1. Mục tiêu chiến lược

Chiến lược phát triển của Viện Dân tộc học tập trung vào các mục tiêu cơ bản sau đây:

Một là, phát triển Viện Dân tộc học trở thành cơ quan quốc gia hàng đầu nghiên cứu, tư vấn chính sách về Dân tộc học/ Nhân học; có những đóng góp quan trọng cho việc cung cấp căn cứ khoa học trong hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc; có vị thế quan trọng trong công tác dân tộc của đất nước; có liên kết chặt chẽ với các tổ chức nghiên cứu và đào tạo về Dân tộc học, Nhân học quốc tế.

Hai là, xây dựng và phát triển đội ngũ khoa học cả về số lượng và chất lượng; xây dựng đội ngũ chuyên gia có trình độ cao, các nhà khoa học kế cận có triển vọng, có khả năng giải quyết các nhiệm vụ khoa học quan trọng, tham gia có hiệu quả vào hợp tác và hội nhập quốc tế.

Ba là, tiếp tục củng cố và phát huy vai trò chủ đạo của Viện Dân tộc học trong nghiên cứu cơ bản về các tộc người ở Việt Nam và những nước trong khu vực; nâng cao vị thế nghiên cứu về Nhân học của Viện.

Bốn là, công bố nhiều công trình nghiên cứu trọng điểm có giá trị cao để khẳng định vai trò, uy tín và ảnh hưởng của Viện với Dân tộc học/ Nhân học của nước nhà; được sử dụng làm cơ sở khoa học cho hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc; có vị trí với nền Dân tộc học/ Nhân học quốc tế.

2. Định hướng nghiên cứu

Định hướng nghiên cứu của Viện Dân tộc học phải gắn với vấn đề dân tộc được xác định trong các văn kiện của Đại hội XI của Đảng; đồng thời được đặt trong định hướng nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Với cách tiếp cận trên, định hướng nghiên cứu của Viện sẽ như sau:

Thứ nhất, cụ thể hóa những vấn đề về dân tộc trong các văn kiện của Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ hai, nghiên cứu cơ bản, toàn diện, kết hợp với nghiên cứu ứng dụng và dự báo về các vấn đề dân tộc ở Việt Nam và thế giới, nhằm cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định và thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trong giai đoạn này, Viện Dân tộc học tập trung nghiên cứu, luận giải các nội dung cơ bản sau đây:

1. Nghiên cứu các quan điểm, chính sách dân tộc và tình hình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thực tiễn hiện nay, trên cơ sở đó, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định, điều chỉnh và thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc ở Việt Nam, góp phần phục vụ công tác quản lý nhà nước trong sự nghiệp phát triển các dân tộc và bảo vệ đất nước; đồng thời góp phần xây dựng hệ thống lý luận chống lại những luận điệu sai trái, xuyên tạc tình hình dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

2. Nghiên cứu cơ bản về quá trình tộc người (phát triển nội tại và biến đổi của tộc người), quan hệ dân tộc (quan hệ nội tộc người; quan hệ giữa các tộc người, trong đó đặc biệt chú trọng quan hệ của dân tộc đa số với dân tộc thiểu số; quan hệ của tộc người với quốc gia - dân tộc và quan hệ tộc người xuyên quốc gia), bản sắc văn hóa tộc người dưới tác động của chính sách dân tộc, của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn cầu hóa. Ưu tiên nghiên cứu các tộc người ở vùng địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, vùng ven biển và hải đảo; các tộc người có mối quan hệ dân tộc xuyên quốc gia ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng của đất nước.

3. Dưới góc độ nhân học kinh tế, nghiên cứu về khía cạnh xã hội và văn hóa trong phát triển kinh tế, về khía cạnh kinh tế trong văn hóa ở các tộc người. Nghiên cứu vấn đề xóa đói giảm nghèo ở các dân tộc, trong đó chú trọng về biến đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, về phân hóa giàu nghèo. Nghiên cứu vấn đề giao lưu, hội nhập kinh tế của các tộc người; tác động của yếu tố kinh tế đến biến đổi xã hội và văn hóa của các tộc người.     

4. Dưới góc độ nhân học môi trường, nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến biến đổi môi trường, biến đổi khí hậu, kinh nghiệm quản lý nguồn lực tự nhiên của các tộc người ở Việt Nam; với hướng tiếp cận chủ yếu là dưới góc độ văn hóa, xã hội và tập trung vào cấp độ cộng đồng. Nghiên cứu việc thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam liên quan đến bảo vệ môi trường, hỗ trợ năng lực cộng đồng trong thích ứng với biến đổi môi trường, biến đổi khí hậu.

5. Dưới góc độ nhân học y tế và dân số, nghiên cứu về chính sách của Đảng và Nhà nước ta, về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa tác động đến sức khỏe, dân số và chất lượng dân số của các tộc người ở nước ta; các đặc điểm văn hóa, giáo dục, tri thức địa phương, phong tục, tập quán trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của các tộc người. Nghiên cứu những động thái dân số ở các tộc người, nhất là quá trình di dân nông thôn - đô thị và di dân xuyên quốc gia.

6. Dưới góc độ nhân học giáo dục, xem xét các yếu tố xã hội và văn hóa tộc người ảnh hưởng như thế nào đến giáo dục và đào tạo ở các dân tộc. Nghiên cứu tác động của giáo dục đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các tộc người, trong đó chú trọng việc ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội, biến đổi văn hóa tộc người.   

7. Dưới góc độ nhân học tôn giáo, nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng của các tộc người và nhóm xã hội, trong đó tập trung vào những vấn đề: chính sách tôn giáo tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta và quá trình áp dụng vào thực tiễn ở các cộng đồng, các tộc người và các nhóm xã hội; sự biến đổi của tôn giáo tín ngưỡng ở một số tộc người, nhóm xã hội, nhóm nghề nghiệp tại thành thị, nông thôn trong nước và xuyên quốc gia; vai trò của tôn giáo tín ngưỡng đối với đời sống các tộc người và nhóm xã hội trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa.

8. Dưới góc độ nhân học chính trị, xem xét mối quan hệ của thiết chế xã hội truyền thống đến hệ thống chính trị cơ sở, đến việc tiếp nhận các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở các tộc người. Nghiên cứu vấn đề nhân quyền trong đời sống các tộc người ở nước ta.

9. Dưới góc độ nhân học ứng dụng, nghiên cứu mô hình phát triển ở các tộc người và nhóm xã hội, bao gồm những vấn đề về kinh tế, xã hội (sinh kế, phân tầng xã hội, đói nghèo, y tế, giáo dục, tệ nạn xã hội...); di dân tái định cư; giới và phát triển; tri thức địa phương trong sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên; các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá, môi trường liên biên giới và xuyên quốc gia... Trên cơ sở đó, cung cấp các luận cứ khoa học và đề xuất quan điểm, giải pháp cho phát triển bền vững các cộng đồng tộc người ở nước ta trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.      

4. Một số giải pháp

a. Xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức

Để đảm bảo cho phát triển của Viện Dân tộc học, cần củng cố, xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức như sau:

Một là, hoàn thiện việc chuyên môn hóa trong các phòng/ trung tâm nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu, gắn chặt với vị trí việc làm. Ưu tiên nguồn nhân lực cho các phòng nghiên cứu theo tộc người, với số lượng cao nhất có thể từ 5 - 6 cán bộ với mỗi phòng. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các phòng nghiên cứu theo tộc người và phòng/ trung tâm nghiên cứu theo vấn đề; giữa các phòng/ trung tâm nghiên cứu với các phòng chức năng, nghiệp vụ.

Hai là, trong điều kiện được đảm bảo về định biên, xây dựng thêm các phòng nghiên cứu về nhân học chính trị, nhân học kinh tế và nhân học giáo dục; hoặc lồng ghép các lĩnh vực nghiên cứu này với các phòng/ trung tâm nghiên cứu khác.

b. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực

Thứ nhất, việc quy hoạch đội ngũ cán bộ khoa học của Viện Dân tộc học cần hợp lý, đồng bộ, có sự tiếp nối giữa các thế hệ cán bộ khoa học. Đội ngũ này cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ nghiên cứu cao để đáp ứng chức năng, nhiệm vụ của Viện.

Thứ hai, chú ý xây dựng đội ngũ chuyên gia, cả chuyên gia theo tộc người và theo vấn đề, có năng lực nghiên cứu và xử lý ở tầm vĩ mô về vấn đề dân tộc. Chú trọng đội ngũ cán bộ có khả năng nghiên cứu liên ngành.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ cộng tác viên khoa học ở ngoài Viện Dân tộc học; thu hút ngày càng nhiều sự đóng góp của các nhà khoa học, cả trong và ngoài nước. Việc thu hút được tiến hành qua thực hiện đề tài nghiên cứu, tổ chức hội thảo, đào tạo cán bộ trẻ.

Thứ tư, tạo điều kiện tốt hơn nữa về vật chất cho cán bộ làm việc, trong đó chú trọng đảm bảo về thiết bị, kết nối thông tin; nâng cao khả năng tiếp cận với các nguồn tư liệu, sách báo ở ngoài Viện Dân tộc học.

Thứ năm, chú trọng nâng cao đời sống cho cán bộ của Viện, trên cơ sở nâng cao năng lực nghiên cứu, khả năng xây dựng và thực hiện các đề tài, dự án; đảm bảo công bằng, dân chủ trong tiếp cận nguồn lực và thực hành tiết kiệm.

b. Đẩy mạnh hợp tác trong nước và quốc tế

Việc hợp tác với các tổ chức nghiên cứu, đào tạo về Dân tộc học/ Nhân học, các cơ quan làm công tác dân tộc ở trong nước và với các tổ chức quốc tế cần được thúc đẩy mạnh mẽ trên các lĩnh vực sau đây:

Một là, hợp tác với các tổ chức nghiên cứu, đào tạo ở trong nước và quốc tế để cập nhật và nâng cao những vấn đề lý thuyết, lý luận, chia sẻ thông tin về Dân tộc học/ Nhân học. Chú trọng các hợp tác xây dựng đề tài, dự án nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng; đề tài, dự án đào tạo, phát triển nguồn   nhân lực.    

Hai là, hợp tác với các địa phương, nhất là ở vùng miền núi và dân tộc, vùng biên giới, hải đảo để nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng về các tộc người, các nhóm xã hội tại địa phương ấy. Trên cơ sở đó, Viện vừa có đóng góp thiết thực cho sự phát triển của địa phương, vừa nâng cao năng lực và vị trí của Viện.

 

Nguồn: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

 

Đang tải dữ liệu...
Các tin đã đưa ngày:
EMC Đã kết nối EMC